Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012

CHÂN LÝ

Bài đăng của Tạp chí Tia Sáng. Copy về đây để đọc và ngẫm.
(Bài gốc: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&News=5080&CategoryID=2 )


Khoa học
04:51-13/04/2012 
Chân lý
Henri Poincaré
Để tìm chân lý người ta phải độc lập, hoàn toàn độc lập. Nếu, ngược lại, chúng ta hành động, nếu muốn mạnh, chúng ta phải đoàn kết. Đó là điều khiến cho nhiều người trong chúng ta sợ hãi trước chân lý; họ xem chân lý như nguồn gốc của sự yếu đuối. Tuy nhiên chúng ta không được sợ hãi sự thật, bởi vì sự thật đẹp tự nó.
Nếu tôi nói chân lý ở đây, dĩ nhiên trước hết nói đến chân lý khoa học; nhưng tôi cũng nói đến chân lý đạo đức, trong đó cái người ta có thể gọi là công lý chỉ là một mặt. Có thể nói, nếu người ta muốn, tôi chơi chữ, rằng có phải cùng một tên mà tôi đã ghép lại hai nội dung không có gì liên quan nhau; rằng chân lý khoa học, điều người ta có thể chứng minh, không hề giống chân lý đạo đức, cái người ta phải cảm nhận.

Nhưng tôi không thể tách rời hai thứ, cái mà người này có thể yêu thì người khác lại không yêu. Để tìm ra chân lý này hay chân lý kia, người ta phải nỗ lực làm cho tâm hồn hoàn toàn tự do khỏi thành kiến và đam mê; chúng ta phải có sự thành thật vô điều kiện. Hai loại chân lý này, một khi được khám phá, sẽ gây cho ta niềm vui; từ giây phút chúng ta nhận ra chúng, chân lý này hay chân lý kia sáng tỏ ra cùng một ánh hào quang, hệ quả là chúng ta phải nhìn nhận nó hay nhắm mắt lại. Cả hai lôi cuốn ta cũng như trốn bỏ ta; chúng không bao giờ đứng yên cố định; nếu ta tin đã đạt được chúng, thì sẽ thấy ta còn phải đi xa hơn nữa, và ai theo đuổi chúng sẽ bị “đọa đày” chẳng bao giờ được sống yên tĩnh nữa.

Nhưng tôi muốn nói rằng, ai sợ hãi chân lý này thì cũng sợ hãi chân lý kia;…nói ngắn gọn: tôi kết hợp lại hai chân lý bởi lẽ sự yêu thương hay trốn chạy đều có cùng những lý do như nhau.

Nếu ta không lo ngại chân lý đạo đức thì chúng ta lại càng không có lý do sợ hãi chân lý khoa học. Và nhất là chân lý khoa học không tranh chấp với đạo đức. Khoa học và đạo đức có những lãnh vực riêng của chúng, hai lãnh vực tiếp xúc nhau nhưng không đan xen nhau. Cái này chỉ ta mục đích để ta vươn tới, cái kia chỉ ta các phương tiện để ta đạt tới mục đích đã định. Do đó chúng không bao giờ mâu thuẩn nhau, vì chúng không bao giờ gặp nhau. Không thể có một khoa học đạo đức, cũng như không thể có một đạo đức khoa học. […]

Vì thế, con người tuy không hạnh phúc bằng khoa học, nhưng ngày nay con người lại càng không hạnh phúc nếu không có khoa học.

Tôi từng có dịp nhấn mạnh rằng trực giác cần có vị trí trong toán học. Nếu không, các mái đầu xanh sẽ không tìm thấy ý nghĩa của toán học, chúng sẽ không biết yêu nó và chỉ nhìn thấy trong đó chỉ là một mớ hỗn độn chữ nghĩa. Đặc biệt chúng sẽ không bao giờ có khả năng ứng dụng toán học.

Tôi không muốn nói rằng khoa học được làm ra cho các ứng dụng; không chút nào như thế; người ta phải học khoa học vì khoa học. Nhưng một cái nhìn vào lãnh vực ứng dụng sẽ bảo vệ chúng ta khỏi chủ nghĩa hoài nghi.

Sự phát triển công nghệ hiện đại, nhìn chung, sẽ không khả thi nếu không có tiến bộ của khoa học. Một người thiếu hiểu biết hôm nay sống trong một môi trường đang được khoa học kiến thiết lại và nhận lấy ảnh hưởng của khoa học một cách không ý thức. Chính khoa học đã đem lại một kiến trúc cho các giấc mơ mà trong những thế kỷ khác có thể hoàn toàn khác.

(Từ Giá trị của Khoa học)
Nguyễn Xuân Xanh trích dịch

(Vĩnh Thuận đưa lên Blog: 14/4/2012)

Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

ẢNH QUÊ NGOẠI NAM QUẤT TỪ KHÔNG GIAN



Ngỡ ngàng hình ảnh sông Hồng từ... 9 tầng mây


Thứ Sáu, 19/03/2010 - 16:55

Như một con Rồng đỏ uốn lượn, bạn sẽ cảm nhận thấy điều đó qua những bức ảnh chưa từng thấy về sông Hồng khi được nhìn từ “trên 9 tầng mây”.


Đỉnh Lũng Pô, huyện Bát Xát, Lào Cai, nơi con sông Hồng tiếp đất Việt Nam. 
 

 Một nhánh thượng góp nước cho sông Hồng tại Lũng Pô.
 

Ruộng bậc thang ở Bát Xát như những đường vân tay nghiêng mình bên "Rồng đỏ"
 

Vắt ngang thành phố Lào Cai
 

Rồng đỏ" giữa màu xanh đại ngàn giáp ranh Yên Bái - Lào Cai
 

Rồng đỏ" quặt qua thành phố Yên Bái
 

Sông Hồng và khúc cua chữ S trên đất Tổ Phú Thọ
 

Ngã ba Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ, nơi sông Lô hợp dòng với sông Hồng
 

Cánh cung sông Hồng, địa phận huyện Đan Phượng, Hà Nội
 

Bãi cát trắng khổng lồ bên sông Hồng, địa phận huyện Phúc Thọ, Hà Nội
 

"Dải lụa" cầu Thăng Long vắt ngang sông Hồng
 

Sông Hồng chia một nhánh sông Đuống
 

Hồ Tây tím lịm bên sông Hồng đỏ quạch
 

Cầu Long Biên và cầu Chương Dương sánh đôi vượt sông Hồng
 

Làng gốm Bát Tràng bên bờ sông Hồng
 

"Rồng đỏ" và khúc uốn Ngũ Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội
 

Cầu Yên Lệnh bắc qua sông Hồng thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên
 

Xanh ngắt những cánh đồng lúa được phù sa sông Hồng bồi đắp, 
ảnh chụp tại địa phận Nam Quất, Phú Xuyên, Hà Nội
 

Sông Đào, một nhánh đổ ra biển của sông Hồng chảy giữa nông trường Bình Minh (Kim Sơn, Ninh Bình)
 và nông trường Rạng Đông (Nghĩa Hưng, Nam Định)
 

Toàn cảnh các cửa biển nơi "Rồng đỏ" hoà vào đại dương
 
Theo VTC News

( ThuanNV - 08/4/2012 từ Dân Trí online)

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

TRANH VẼ CỦA NHÀ THƠ QUANG DŨNG


Xem tranh trong thơ Quang Dũng

SGTT.VN - Ngày 18.02.2012

Thi sĩ Quang Dũng (1921 – 1988) là người đa tài, ông còn vẽ tranh, viết nhạc… cái nào cũng đượm chất tài hoa.
Để đọc thơ Quang Dũng, hiện nay có rất nhiều cách, nhưng muốn xem tranh của ông, thiệt khó, vì nó nằm “im hơi” đâu đó trong các gia đình, trong các sưu tập. Dường như hiểu được điều này, cuốn thơ văn tinh tuyển Mắt người Sơn Tây (Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 2012) vừa phát hành, ngoài những ký hoạ, thủ bút, ảnh lưu niệm, nhóm thực hiện còn giới thiệu 15 bức tranh của Quang Dũng (kể cả hai tranh bìa) với chất liệu màu nước và bột màu.
Qua 15 tác phẩm này, phong cảnh là “đối nhân”của Quang Dũng, nên gần như ông tránh né vẽ người (?) Những bức có vẽ người, ông cũng cho họ ở xa xa hoặc bé mọn, chẳng nhìn rõ nét mặt; ngay cả bức vẽ hai con gái của mình là Hạ và Thảo ở Kim Châu (màu nước, 1966) cũng thế, nhân vật rất bé nhỏ, đang lơ ngơ giữa khoảng trời trống trải, vô vọng.
Theo Bùi Phương Thảo, con gái út của Quang Dũng thì: “Hiện nay, gia đình tôi còn giữ một số bức tranh, bức Cây bàng tôi đang treo tại nhà cùng một số tranh khác của cha. Anh Tân còn lấy ra một bức tranh nhỏ đưa cho tôi, bức tranh bằng chất liệu bột màu, vẽ một bến sông có nhiều thuyền neo đậu, xa xa là chập chùng đồi núi… rộng hơn khổ giấy A4, phía góc phải tranh có ghi: “Bến Ngọc sông Đà, mồng 4 tết năm 1960. Lên thăm ông Sự – Mùa sông Đà cạn. Nhớ lại năm 1947, ngược lên Tây Tiến từ bến này. Quang Dũng”.
Trong một thư tay đề ngày mồng 3 tết 1980, Quang Dũng viết: “Anh Ngọc Chương. Tôi mang ba bức tranh biếu anh, mừng tuổi 60 của anh. Ba bức ấy có tên là: 1/ Cây bàng. 2/ Đường ven làng Tây Hồ (có cây gạo và xe ngựa). 3/ Vườn Nhật Tân (có hoa đào về tháng chạp… năm 1960). Bức Cây bàng tôi rất quý và chắc anh cũng vừa ý. Chỉ xin phép anh tới năm 1985 thì anh lại cho tôi được giữ, chắc lúc đó tôi sẽ cũng có một cuộc họp mặt vào quãng 65 tuổi, giống như anh ngày nay. Tôi có tí việc, hôm mồng 6 này, không xuống uống chén rượu vui tuổi lên lão của anh kịp. Xin hẹn đến 1985”.
Hai đoạn trích ngắn gọn này cho thấy Quang Dũng vẽ tranh cũng kha khá về số lượng. Mấy bức vừa được đề cập, thật may mắn, đều có trong tuyển tập Mắt người Sơn Tây, với tên gọi khác đôi chút, nhưng đúng như diễn tả. Bức Cây bàng (trong sách đề Gốc bàng, bột màu, 1962) từng tham dự triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1963, là một cảm nghiệm của tác giả về cái cũ và cái mới, về nỗi cô đơn trước quang cảnh. Chia bức tranh làm hai phần, nghiêng lên phía trên là cây cối già nua và những phận người bé mọn, phía dưới là một con đường cong, chẳng bóng người đi.
Hội hoạ cũng giống thơ của ông, nặng ngoại cảnh, nhưng thực chất lại lột tả nỗi lòng trống vắng, hoài nhớ và ước mong về những khoảng sống yên bình, một nhu cầu rất “tiểu tư sản”. Giống như trong bài Thu (1950), với nỗi nhớ nhà, ông kết: “Diều sáo vang không hồn ấu thơ/ Bèo lạnh cầu ao ai đợi chờ?/ Một tiếng sung rơi đo lặng lẽ/ Mùa thu xào xạc lá tre khô”. Sau một đời lận đận bởi thời cuộc, bệnh tật và sống trong nghèo khổ, đến năm 2001, ông được truy tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, đợt 1.
Tác phẩm Kháng chiến, màu nước, 1967.
HIỀN HOÀ
Thuannv - 8/4/2012

HÒA NHẠC BẮC TRIỀU TIÊN VÀ PHÁP


Há hốc trước buổi hoà nhạc Triều Tiên tại Paris

SGTT.VN - 15/3/2012
Dàn nhạc Unhasu của CHDCND Triều Tiên cùng dàn giao hưởng Radio France Philharmonic của Pháp đêm thứ tư 14.3 đã có buổi hoà nhạc đầu tiên tại Paris, dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng danh tiếng người Hàn Quốc Myung-Whun Chung, có mẹ là người Triều Tiên.
Nhạc trưởng nổi tiếng người Hàn Quốc Myung-Whun Chung. Ảnh: AFP 
Hãng tin AFP gọi sự kiện này là một "chiến thắng ngoại giao tôn vinh âm nhạc không biên giới".
Không khác với AFP, BBC cũng đẩy tin này lên nổi bật một vào chiều qua, chứng tỏ độ gây ngạc nhiên của nói đối với người đọc của hai hãng tin, khi mà lâu nay người ta chỉ nghe đồn ở bển toàn nhạc lãnh tụ ca...
"Buổi hoà nhạc gia đình", theo cách gọi của nhạc trưởng đồng thời là người tổ chức sự kiện trên, gồm khoảng 70 nhạc công của dàn nhạc Unhasu và 70 thành viên của dàn giao hưởng lớn của Pháp.
Kênh truyền hình Arirang (Hàn Quốc) cho biết buổi hoà nhạc đã đạt đến đỉnh cao khi cả hai dàn nhạc mở màn bằng điệu dân ca nổi tiếng Arirang của Hàn Quốc, bài hát đã từng vang lên trên bán đảo Triều Tiên hơn 600 năm trước. Nhạc trưởng Chung giải thích ông chọn bài nhạc này với hy vọng hai miền Triều Tiên, thông qua ngoại giao âm nhạc, có thể một lần nữa hợp nhất.
Để chứng tỏ sự ngạc nhiên đó, nghệ sĩ violin của Pháp Mirelle Jardon phát biểu cảm nghĩ: "Chúng tôi không biết phương pháp học của họ là gì, giáo viên của họ là ai, nhưng tôi thấy họ có trình độ cao. Với lần hợp tác này, Triều Tiên đã mở rộng hình ảnh ra thế giới".
Trưởng đoàn Triều Tiên Kwon Hyok-bong nhận định buổi hoà nhạc là sự kiện lịch sử trong quan hệ song phương hai quốc gia vì Bình Nhưỡng-Paris không có quan hệ ngoại giao chính thức. Pháp chỉ mở văn phòng trao đổi văn hoá tại Bắc Triều Tiên vào năm 2011.
Trước đó, kênh Arirang đưa tin nhạc trưởng Chung cố gắng tổ chức buổi biểu diễn có sự tham gia của các nghệ sĩ Hàn Quốc nhưng nỗ lực đã sụp đổ vì bối cảnh căng thẳng hiện nay giữa hai miền Triều Tiên. Buổi biểu diễn chung Triều Tiên – Pháp diễn ra khi quan hệ giữa Bình Nhưỡng với phương Tây có dấu hiệu “tan băng” sau khi nước này đã chấp nhận ngừng chương trình hạt nhân để đổi lấy viện trợ lương thực từ phía Mỹ vào ngày 29.2 vừa qua.
Sau thành công của buổi biểu diễn hôm thứ tư, thách thức tiếp theo của vị nhạc trưởng sẽ là tổ chức buổi trình diễn kết hợp giữa các nghệ sĩ từ cả hai miền Bình Nhưỡng-Seoul vào trước cuối năm 2012.
TUYẾT HẠNH (ARIRANG, AFP, BBC)
(MenKien@gmail.com - 8/4/2012)

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

NHÀ VĂN NG. HUY THIỆP VÀ VONG BƯỚM


(Thuan_Men - 5/4/2012) -  Nhân vở kịch "Vong Bướm" của Huy Thiệp ra mắt, Báo SGTT phỏng vấn ông về đời viết văn:

04:47-03/04/2012 - Tạp chí Tia Sáng
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp:

Danh càng cao, họa càng nhiều


Theo Sài Gòn Tiếp thị
Chân dung hội hoạ: Hoàng Tường

"Tôi tự hào là nhà văn gây cảm hứng cho nhiều người viết trong hai mươi năm qua, nhưng tôi cũng biết thân biết phận, danh càng cao thì họa càng nhiều, điều đó chẳng hay ho gì đâu." 


Xuất hiện lần đầu tiên năm 1986 với Tướng về hưu, ông lập tức gây sửng sốt cho người đọc, và suốt 20 năm qua, mỗi tác phẩm của ông đều khuấy đảo cái không khí vốn tịch mịch của văn chương Việt. Những tác phẩm ấy gây tranh cãi về cách hiểu, cách đọc, cách phê bình văn học, tạo sự hứng thú cho cả người đọc, nhà phê bình, người quản lý. Sống, đau đớn, chiêm nghiệm, tỉnh thức, để rồi lại mê man, tìm kiếm… ông trình bày cuộc sống như nó đang là, để đời sống tự nó hiện lên ý nghĩa.


Ông thường đón nhận người yêu kẻ ghét tác phẩm của mình bằng nụ cười kiêu bạc. Giờ tóc đã điểm sương, ông có còn giữ được sự kiêu bạc ấy khi có người nói “Nguyễn Huy Thiệp suy rồi”, “Nguyễn Huy Thiệp đang bị bắn chết trong văn học”, “Nguyễn Huy Thiệp chấp chới trong sự sống và cái chết”...?


Chừng nào còn bên nam bên nữ, bên ghét bên yêu là mình còn. Xuất hiện lần đầu tiên năm 1986, bắt đầu thời kỳ đổi mới, năm tôi 36 tuổi, đến giờ đã 63 tuổi, qua ba con giáp, cũng là lúc kết thúc sự nghiệp văn học của mình, kết thúc cuộc đời. Có một cái duyên: tác phẩm Tướng về hưu của tôi in đầu tiên ở Sài Gòn, và bây giờ, tác phẩm cuối cùng cũng được in và bày bán trước tiên ở đây. Dù nhiều luồng dư luận khác nhau nhưng không ai chối bỏ rằng nó vẫn mang chất Nguyễn Huy Thiệp. Càng tàn bạo, càng nhọc nhằn, đau đớn, hoang mang thì càng gần đến đạo. Tác phẩm của tôi làm đảo lộn cách nghĩ, đó phải chăng cũng là một trò chơi, trò chơi vô tăm tích. 


Ông đã viết hơn mười tác phẩm kịch, chèo, khi viết ông có nghĩ đến việc chuyển nó lên sân khấu biểu diễn? 


Cuộc đời sáng tạo mỗi người có một con đường riêng, một số phận riêng. Rất nhiều người tài khi mới bước vào sự nghiệp đều bị người đi trước coi là không biết viết. Hồi tôi bắt đầu xuất hiện trên báo chí đã từng bị những người biên tập cho là lối viết cọc cạch, không phải văn học, nên chuyển nghề khác! Với Vong bướm, chính Trần Đăng Khoa còn nói: “Mọi người bị ông Thiệp lừa hết, ông ấy chẳng biết gì về chèo cả”. Chúng ta sống trong cuộc đời, tất cả mọi người đều đi trong cõi hỗn độn vô minh, như thể một đầm lầy đen tối. Trong đầm lầy may mắn nhô lên một mỏm đá, những mỏm đá ấy có thể là Nguyễn Du, Bùi Xuân Phái… Nếu không có những mỏm đá nhô lên trên đầm lầy thì người ta biết đi đâu… Có những hòn đá bước lên bị thụt xuống mất tiêu luôn, nhưng cũng có những hòn đá giúp ta đứng lên đi tiếp. Với mỗi kịch bản sân khấu, tôi làm hết mình. 


Tôi muốn bước đầu mở ra một cách xem, nghe, nhìn mới. Tôi tưởng tượng Vong bướm sẽ thoát khỏi sân khấu truyền thống, được trình diễn trên một sân khấu hoành tráng như cuộc thi hoa hậu, với ánh sáng tưng bừng, và dàn đồng ca là hàng trăm cô gái… Trong lễ trao giải tại Ý, tôi đã từng chứng kiến hàng trăm sinh viên hát những bài dân ca nổi tiếng của Ý gây không khí náo nhiệt. Những giá trị văn hoá cổ truyền như chèo, cải lương, tục ngữ ca dao… không thể chỉ trình diễn ở mái đình cây đa. Nếu không bước vào không gian sân khấu hiện đại, không biết biến hoá, nó sẽ chết. Có những tác phẩm mà thời điểm ra đời và thời điểm xuất hiện có khi không trùng nhau, như vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan của Nguyễn Đình Thi, hay vở Ba chị em của Tchekhov đến nay vẫn chưa được dựng.


Trong các tác phẩm của ông, nhân vật đều hiện lên với tất cả sự trái ngược: trắng đen, tinh khiết, tục tằn... Dường như ông yêu cuộc sống với những gì đẹp đẽ và cả sự thô nhám?


Người viết văn chúng tôi rất khó lý giải về tác phẩm của mình. Văn học là một công việc lao động đặc biệt, phụ thuộc chuyện người viết sống thế nào mới có cái để kể cho người khác nghe. Tôi nhớ giai thoại về Dostoevsky, khi người ta hỏi ông thích nhất tác phẩm nào, ông nói Anh em nhà Karamazov, ông thú thực đã viết khi đang bị bệnh trĩ hoành hành. Viết giúp ông trượt qua nỗi đau rất thực đó. Ông viết về nỗi đau của chính chúng ta, không phải nỗi đau xa xôi nào. Con người sống trong tăm tối vô minh. Đi tìm con đường sống cho con người, nhiều khi phải rất đau đớn về cả thể xác và nội tâm, phải trải qua những đắng cay, trần trụi nhất mới có thể viết những tác phẩm có lòng từ bi hỉ xả, đó cũng là hạnh phúc… Hãy làm bằng sức của mình, đừng cố gắng, cố rất mệt… Một bạn viết văn trẻ đã nói với tôi rằng: “Văn học của ta rất ít muối, tác phẩm của ông là muối xát vào lòng người đọc”. Điều đó an ủi tôi nhiều. Viết là làm cho bản thân và một vài người quanh ta khá khẩm hơn lên một chút, đó là cái nhìn rất thực tế của tôi về cuộc sống nói chung và nghệ thuật nói riêng.

Đi từ truyện ngắn đến truyện dài, tiểu thuyết, phê bình văn học, và bây giờ là kịch thơ, chèo… sắp tới không biết ông sẽ còn đi đâu? 




Càng tàn bạo, càng nhọc nhằn, đau đớn, hoang mang thì càng gần đến đạo. Tác phẩm của tôi làm đảo lộn cách nghĩ, đó phải chăng cũng là một trò chơi, trò chơi vô tăm tích.
Hãy sống với cái đang là, đang diễn ra. Tôi cũng có những dự cảm lạc quan, nhưng để thành hình cái gì thì phải chờ… gió đông thôi (cười ý nhị). Có những cái là sức người, có cái phải nhờ sức giời nữa. Tôi sống tuỳ duyên, nhưng luôn cố gắng để viết hay nhất có thể. Nền văn học cũng phải đa dạng, nhìn ra những cái mới trong tương quan chung. Chúng ta rất cần những kịch bản sân khấu phá cách. Mỗi người hãy dựng trong lòng mình một sân khấu chèo riêng cho Vong bướm. Như thế mới có cơ may giữ gìn và làm mới văn hoá cổ truyền. Giá trị dân tộc ngày càng phải bảo tồn theo cách mới, đó chính là cuộc sống phía trước, là hy vọng. 


Vong bướm là tuyên ngôn về nghệ thuật, về thân phận của người nghệ sĩ?


Tôi cũng sắc sắc không không, cũng có lúc nói dối, có lúc nói thật, có lúc vụng dại… không có tuyên ngôn chung cho tất cả. Nhà văn giống như một nghề, viết trước tiên là cho mình. “Khi mê bùn chỉ là bùn, ngộ ra mới biết trong bùn có sen”… Ở đời nó thế, nhiều nghịch lý lắm, có khi người vô đạo đức lại cứ ra rả nói về đạo đức, người lương thiện lại toàn nói ra điều ác. Thiện ác, đúng sai, hay dở chính là cuộc sống. Chúng ta rất nhiều người viết được văn, nhưng không phải ai cũng được chọn. Đấy cũng là điều độc đáo của tạo hoá. 


Trang Châu gửi mộng tan thành bướm… Bướm về tan mộng hoá Trang Châu… Vong bướm phảng phất hương vị của đạo Phật, Lão, Trang. Đến tuổi này vui buồn được mất cũng như nhau, thấy đời văn cuối cùng được tiếp đón chân tình, nồng nhiệt là quý lắm rồi. Mối quan hệ quan trọng nhất trong xã hội là chuyện tình, chuyện đạo, chuyện đạo nói cho cùng cũng là âm dương. Đàn ông hay đàn bà cũng phải bước qua xác rất nhiều “đàn” mới nên người.


Ưu tư lớn nhất của ông về sự tha hoá của con người trong cơn lốc của cuộc sống hiện đại? 


Xã hội càng phát triển, càng khó mà xác định đúng sai hay dở, vì thế nhiều thứ giả lên ngôi. Hiện sinh trong tác phẩm của tôi là trực ngộ. Thật sự con người rất oái oăm. Muốn trở thành nhà văn, phải rất tinh vi, đi vào cái vi tế của con người. Lòng người càng ngày càng oái oăm, trẻ con lấy nhau, bỏ nhau như bỡn. 


Vừa rồi tôi đi thăm mấy nhà trọ của khu công nghiệp Bình Dương, thấy nhiều đôi trai gái đẻ con không đủ tiền nuôi, đem cho một cách thản nhiên. Một người đàn ông làm từ thiện phải than trời vì nhiều trẻ bị bỏ rơi đến nỗi ông nhận không xuể. Cái ác phổ biến đến nỗi người ta không biết đó là ác nữa. Nếu chỉ nhìn những khu công nghiệp hào nhoáng, làm sao thấy được những nhà trọ chật chội đầy trẻ con có cha mẹ mà vẫn mồ côi, những người công nhân cuộc sống ức chế, thiếu hụt nghiêm trọng cả về đời sống tinh thần, vật chất. Chứng kiến những điều đang diễn ra, tôi đau lòng, giật mình. Chúng ta đâu cần phải hoành tráng, hào nhoáng, hãy phát triển từ từ để nâng cao trình độ dân chúng. Hoà nhập thế giới là chơi với người giỏi hơn mình, nếu không vững sẽ rất dễ bị áp đặt luật chơi của họ. Trong xã hội chỉ có một bộ phận theo kịp, nhưng dân chúng thì bị thiệt thòi rất nhiều. Bất ổn từ đó mà sinh ra. Vong bướm cảnh tỉnh con người đừng rời bỏ thiên nhiên, hãy quay trở về với cái gốc gác làng quê của mình. Văn học như cái phanh, làm cho con người sống chậm, sống tử tế hơn.


Nhiều người gọi ông là “người nhà quê còn sót lại trong văn học Việt Nam”. Làm thế nào để ông giữ được cái nhà quê ấy trong đời thường? 


Hình ảnh Điệp Lang rời bỏ quê hương, tổ tiên, đi tìm ánh sáng đô thị, cũng là hình ảnh của nhiều văn nghệ sĩ đương thời, nhiều khi chỉ là ảo tưởng, rất nhiều người chết dọc đường, vẫn là một anh nhà quê. Ở phương Tây có những thương hiệu được gìn giữ hàng trăm năm, qua nhiều thế hệ, cha truyền con nối. Nhưng ở Việt Nam, những thương hiệu lớn lập ra từ thế hệ đầu có ai nối nghiệp đâu. Chúng ta thiếu sự bàn giao, không có thế hệ tiếp nối trong tất cả mọi lĩnh vực. Những giá trị cha ông bao nhiêu công sức dựng nên đã bị phá tan tành bởi tư duy nhiệm kỳ. Rất nhiều thế hệ nghệ sĩ đã chết dọc đường vì những cám dỗ.


Tôi cũng vậy thôi, mảnh đất nhà quê của tôi cũng mất một nửa rồi, chỉ còn cái vườn rau. Ngày xưa còn có cái cây to, giờ không còn nữa. “Nhà ông bán đi rồi/ Vợ lăm le ở vú/ Con tấp tểnh đi bồi…” Y như Tú Xương vậy thôi. Còn cơm áo gạo tiền, còn thế hệ con cháu, không bán không xong với nó!


Ông có bị lạc lõng trong nhịp thở hôm nay? Điều gì giúp ông sống vui mỗi ngày?


Xã hội bây giờ đâu có như xưa, phải hoà nhập chứ, nhảy ra khỏi đoàn tàu định mệnh là chết liền. Dù chen chúc vẫn phải trèo lên. Phải vào hội sách, bán sách mới nuôi được gia đình, mới ký được hợp đồng với NXB Trẻ chứ! Mỗi cuốn sách có một sự bắt đầu khác nhau, hai vở kịch của tôi Nhà ôsin và Vong bướm in lần đầu tiên trên báo Sài Gòn Tiếp Thị. Trong đó, Vong bướm in thành sách một tháng sau. Rồi tôi được NXB Trẻ mua bản quyền toàn bộ tác phẩm (44 truyện ngắn và tuyển tập truyện, trừ cuốn Vong bướm), sử dụng trong năm năm với trị giá 500 triệu đồng. Như thế cũng oách rồi. Nếu rời xa những công việc quen thuộc ấy tôi biết làm gì. Vừa tu, vừa không tu. Tu giữa chợ đời.


Giúp tôi sống vui có nhiều thứ, trong đó có văn chương. Văn chương vừa là cứu cánh, vừa là công việc. Văn chương là đạo giúp mình sáng nước hơn, nhìn ra những cái mới, giúp mình chia sẻ được với vợ con, bạn bè, mọi người. Văn là người, giống như tần sóng radio, có người bắt được sóng, có người không, cũng là chuyện thường.

Trong buổi giao lưu với sinh viên Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, nhiều ý kiến tâm đắc với 
Vong bướm, dường như lớp trẻ đón nhận tác phẩm của ông đã cởi mở hơn? 




Ngày xưa ít tiền, danh tiếng ít, sống hạnh phúc hơn. Thời đó cũng có đau khổ nhưng là đau khổ giải thích được, là đau khổ thông thường của từng người đối mặt với cái ác. Những cái ác có lý. Không phải đối diện với cái ác vô lý, không giải thích được như bây giờ.
Xã hội mình đang phân hoá khốc liệt vì đời sống, phương thức sống, kể cả giới trí thức. Những nhà nghiên cứu, những người trẻ có điều kiện kinh tế, tri thức nhất định, trình độ ngoại ngữ tốt… dễ nhận ra những giá trị thực.


Ông nghiệm ra điều gì từ những được mất trong nghiệp dĩ của mình?


Tôi sống chủ yếu bằng sự nghiệp viết lách, nhưng cũng không ăn thua, cũng phải theo thời, bán đất đi để sống. Ngẫm lại ngày xưa ít tiền, danh tiếng ít, sống hạnh phúc hơn. Thời đó cũng có đau khổ nhưng là đau khổ giải thích được, là đau khổ thông thường của từng người đối mặt với cái ác. Những cái ác có lý. Không phải đối diện với cái ác vô lý, không giải thích được như bây giờ. Nhà văn mình rất ít người nhận ra điều ấy, có người nhận ra, đau lòng, nhưng không dám viết. Văn học cũng nhận ra, nhưng chậm hơn văn học dân gian. Văn học nếu không nhận ra điều ấy thì chúng ta cũng giống như súc vật thôi, không có linh hồn, không có tình. Tôi mong văn học Việt Nam ngày càng cởi mở, có nhiều tác phẩm mới, đẹp đẽ hơn nữa… Tôi tự hào là nhà văn gây cảm hứng cho nhiều người viết trong hai mươi năm qua, nhưng tôi cũng biết thân biết phận, danh càng cao thì hoạ càng nhiều, điều đó chẳng hay ho gì đâu.


(Theo: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&News=5046&CategoryID=41 )



Giao lưu với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp

SGTT.VN - 15 – 17 giờ ngày mai, 23.2, tại càphê sáng tạo Trung Nguyên – 36B Điện Biên Phủ, Hà Nội – diễn ra buổi giao lưu với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhân cuốn Vong bướm vừa phát hành.

Vong bướm tập hợp hai tác phẩm chèo (Vong bướm và Truyền thuyết tìm vua) như một thể nghiệm của nhà văn tên tuổi trong giai đoạn này. Buổi giao lưu có nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp và TS Lê Phượng.