Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

LÁ CỜ PHẬT GIÁO



Những điều nên biết về lá cờ Phật giáo
(Kienthuc.net.vn) - Mỗi người con của đức Phật phải luôn tôn trọng và bảo vệ lá cờ Phật giáo vì nó tượng trưng cho Phật giáo, cho tinh thần đoàn kết và bất phân biệt của tín đồ Phật giáo trên toàn thế giới.


Nguồn gốc của lá cờ Phật giáo
Theo thư viện Hoa sen thì người phác họa ra lá cờ Phật giáo là ông Henry Steel Olcott, sinh ngày 2/8/1832 tại New Jersey (Hoa Kỳ) và mất ngày 17/2/1907 tại Adgar (Ấn Ðộ). Ông nguyên là đại tá Hải Quân của Quân đội Hoa Kỳ.

Lá cờ Phật giáo được treo trong mỗi chùa, tự viện trên khắp thế giới

Ông có công lớn nhất trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Tích Lan (tức Srilanka - PV), từ đó nhà Phật học uyên thâm Anaragika Dharmapala người Tích Lan, môn đệ của Olcott đã khôi phục nền Phật giáo Ấn Ðộ ngày 21/1/1891 và cũng từ đó dần dần Phật giáo truyền bá sang phương Tây rồi lan tràn khắp thế giới.
Từ khi ông Henry Steel Olcott Quy y Tam Bảo, ông đã tổ chức những trường học Phật giáo khắp xứ sở Tích Lan, từ thành thị tới thôn quê hẻo lánh. Không chỉ riêng ở Tích Lan, ông còn vận động để mở các trường học Phật giáo ở các quốc gia khác như Nhật Bản, Thái Lan, Miến Ðiện, Ấn Ðộ...
Năm 1889, ông cùng Thượng Tọa Susmangala (người Tích Lan) phỏng theo sáu màu hào quang của Ðức Phật (xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam và màu tổng hợp của năm màu này) đã phác họa ra mẫu cờ Phật giáo.
Lá cờ này đã được công bố trên báo Sarasavi Sandaresa vào ngày 17/4/1885 và được treo vào Lễ Phật Đản 28/4/1885. Đây cũng là lễ Phật Đản đầu tiên ở Sri Lanka dưới chế độ cai trị của thực dân Anh.
Đại tá Henry Steel Olcott đã sửa lại hình dạng của lá cờ trở thành hình dạng như bây giờ để mọi người có thể dễ sử dụng hơn. Lá cờ mới này đã được treo tại Lễ Phật Đản năm 1886.
Vào ngày 25/5/1950, Đại hội Phật giáo Thế giới đã công nhận lá cờ này là lá cờ chính thức của Phật giáo thế giới.
Tại Việt Nam, đến ngày 6/5/1951, tại chùa Từ Ðàm (TP Huế) Ðại Hội Phật giáo ba miền. Trong dịp Đại hội, Thượng tọa Tố Liên (nguyên Trụ trì chùa Quán Sứ - Hà Nội) đã tặng Ðại Hội lá cờ Phật giáo thế giới và đại hội đã chấp nhận lá cờ này cũng là cờ Phật giáo Việt Nam.

Năm màu sắc trên lá cờ Phật giáo
“Cờ Phật giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật tử trên toàn thế giới. Cờ Phật giáo còn tượng trưng cho niềm Chính tín và sự yêu chuộng hòa bình của mọi người con Phật. Ngoài ra, cờ Phật giáo còn có ý nghĩa cắt bỏ quan niệm cố chấp các ranh giới địa phương, gia tăng niềm hăng hái đoàn kết để phụng sự cho Ðạo Pháp và dân tộc” - Theo thư viện Hoa Sen.
Năm sắc theo chiều dọc lá cờ: Xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam, tượng trưng cho hào quang chư Phật. Năm sắc theo chiều ngang là mầu tổng hợp tượng trưng cho ánh sáng hào quang chư Phật. Ý nghĩa của mỗi màu sắc có sự phân biệt khác nhau.
Màu xanh đậm tượng trưng cho Ðịnh căn, màu xanh tượng trưng cho sự rộng lớn, sáng suốt.
Màu vàng lợt tượng trưng cho Niệm căn vì có Chính Niệm mới sinh Ðịnh và phát Huệ.
Màu đỏ tượng trưng cho Tinh tấn căn bởi có Tinh tấn mới khắc phục được mọi trở ngại, nghịch cảnh.
Màu trắng tượng trưng cho Tín căn, niềm tin không lay chuyển và có tín căn là có Nhân Duyên với chư Phật và nguồn gốc sinh ra muôn hạnh lành.
Màu da cam tượng trưng cho Huệ căn. Khi có Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh đầy đủ thì Tuệ sẽ phát sinh.
Màu tổng hợp tượng trưng cho tinh thần đoàn kết của Phật giáo đồ trên toàn thế giới.
Như vậy, năm màu của lá cờ là biểu trưng cho ý nghĩa ngũ căn ngũ lực. Ngoài ra, nó còn biểu trưng cho ý nghĩa tinh thần hòa hợp của Phật giáo.
Phật giáo luôn chủ trương hòa bình. Vì thế, nhân loại khắp năm châu, tuy màu da chủng tộc có khác nhau nhưng Phật giáo xem nhau như tình huynh đệ một nhà.
Với tinh thần từ bi, bình đẳng, lục hòa, Phật giáo không có phân chia giai cấp hay phân biệt khác nhau màu da chủng tộc. Vì tất cả đều có chung một nguồn tuệ giác (Phật tính) như nhau.
Vì vậy, lá cờ Phật giáo ngoài ý nghĩa biểu trưng cho giáo lý, nó còn nói lên tinh thần thích nghi hòa hợp đó.

(Bài viết có sử dụng tài liệu của Thư viện Hoa Sen)
Bùi Hiền

Nguồn: Bee.net

Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2012

THÚ CHƠI CÁ RỒNG Ở HÀ NỘI




Những “cục vàng biết bơi” trị giá bạc tỷ ở Hà Nội

Lao Động - Thứ bảy 19/05/2012 11:47

Ở Hà Nội, có một người mê cá rồng đến quên ăn, quên ngủ, sẵn sàng dốc cả gia sản để mua một chú cá về chơi. Với người bình thường, chú cá ấy chỉ bõ một bữa nhậu, nhưng với anh, nó là niềm đam mê cả đời. Anh bảo, thiếu cá anh không thể sống được.
Những “cục vàng biết bơi” trị giá bạc tỷ ở Hà Nội
Bể cá dài 4,5m của anh Chính Ngọc.
“Thủy cung” cá rồng

Phải vòng vèo mãi, tôi mới tìm được nhà anh Chính Ngọc, trong con ngõ vòng vèo ở đường Nguyễn Văn Cừ (Long Biên, Hà Nội). Căn nhà rộng thênh thang. Toàn bộ phòng khách chỉ có bộ bàn ghế ở giữa, còn xung quanh là những chiếc bể, toàn thả cá rồng.

Ông chủ và khách ngồi giữa phòng, thoải mái ngắm những chú cá rồng bạc tỷ bơi lội trong ánh sáng nhiều màu của hệ thống điện cầu kỳ. Phải nói rằng, khi điện sáng lung linh, “căn phòng cá” của anh biến thành thủy cung như trong chuyện cổ tích.

Anh Chính Ngọc bảo, anh không phải đại gia, việc lên báo khoe mẽ bỏ tiền tỷ mua cá về chơi, sợ thiên hạ cười vào mũi, nên anh xin phép không chụp ảnh. Nhưng có thể chụp đàn cá của anh thoải mái.

Anh Chính Ngọc không phải là người có thâm niên chơi cá rồng, nhưng xét về độ khủng, thì khó có đại gia nào đọ được với anh.

Chỉ 3 chiếc bể chính ở phòng khách, đã tiêu tốn của anh vài trăm triệu. Anh sắm 3 chiếc bể khổng lồ này 10 năm trước. Chiếc lớn nhất dài 4,5m, chiếc thứ hai dài 2,5 và chiếc thứ ba dài 2m. Cả ba chiếc bể đều có chiều rộng và độ cao 1m.

 
Những chú huyết long anh Chính Ngọc mua vơi giá 2.000 USD/con. 

Những chiếc bể này được một chuyên gia thiết kế, dùng loại kính cường lực, chịu sức ép hàng chục tấn nước. Đáng chú ý là 3 chiếc bể nằm ở 3 bức tường, thế nhưng chúng lại thông với nhau.

Để 3 bể cá này vận hành được, phải có một hệ thống lọc nước, hệ thống sưởi khổng lồ. Tôi đi ra phía sau nhà, mới thấy dây rợ, hệ thống dẫn nước như mắc cửi.

Nước ở những chiếc bể này được lọc bằng một hệ thống máy tự động. Nước bẩn được hút lên bể lọc. Nước sạch chảy vào bể dưới lòng đất, sau đó được bơm lên tận tầng 4 của ngôi nhà. Từ đây, nước không ngừng chảy xuống bể.


Ngoài hệ thống lọc, thì hệ thống sưởi cũng tối quan trọng. Mùa hè thì không sao, chứ mùa đông, nhiệt độ xuống dưới 20 độ C, cá sẽ biếng ăn, thậm chí lăn ra chết. Con cá rồng bơi tung tăng thì có giá tương đương cục vàng, nhưng nói dại, nó chết nổi bụng, thì chỉ có giá trị với… mèo.

Vậy là, vào mùa đông, hệ thống máy sưởi hoạt động liên tục, nhằm giữ cho cả chục khối nước có nhiệt độ tương đương với mùa hè. Riêng tiền điện chi cho khoản này, cũng tốn cả chục triệu mỗi tháng.


Những “cục vàng biết bơi”

“Thủy cung” của anh Chính Ngọc gồm tổng cộng 14 con cá rồng. Trong đó, có 12 huyết long, 2 quá bối đầu vàng và 1 chú platinum. Tất cả những chú cá rồng của anh Chính Ngọc đều là loại đặc biệt, cực đẹp và cực đắt. Tổng số tiền anh bỏ ra để sắm mấy con cá cách đây gần chục năm là 64.000 USD.

Cách đây gần chục năm, anh Chính Ngọc dám bỏ 24.000 USD để mua 12 con huyết long (2.000 USD một con), khiến giới chơi cá không chỉ Hà thành, mà cả nước xôn xao. Với số tiền ấy, đủ mua một căn nhà đẹp vào thời điểm đó.

Cặp quá bối đầu vàng mà anh Ngọc mua với giá 10.000 USD/con. 

Vụ anh Chính Ngọc sắm một lúc 12 chú huyết long, khiến giới buôn cá cả nước biết tên. Thời gian sau, một doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh nhập về 3 con quá bối đầu vàng, nhưng với giá 10.000 USD một con vào thời điểm đó, không ai dám mua.

Doanh nghiệp nọ biết tiếng anh Chính Ngọc, nên tìm cách liên hệ giới thiệu. Nghe tin có quá bối đầu vàng nhập về Việt Nam, anh Ngọc đã vào ngay Sài Gòn. Anh đã xuống tay tổng cộng 30.000 USD để rước cả 3 chú cá này ra Hà Nội.

Quá bối đầu vàng là loài cá rồng cực kỳ hiếm, đắt. 

Bỏ ra từng ấy tiền mua 3 con cá, mỗi con bằng cỡ bàn tay, không ít người cho rằng anh bị hâm nặng. Thế nhưng, chỉ có anh mới hiểu được giá trị của nó. Anh đã có cả chục lần sang Singapore, nơi tập trung các loại cá cảnh đẹp nhất thế giới, mà không kiếm nổi một con quá bối đầu vàng. Anh mua được 3 con với giá đó là quá hời rồi.

Quá bối đầu vàng là dòng cá rồng đẹp nhất, hiếm nhất và đắt nhất. Tuy nhiên, vì chưa hiểu rõ tập tính của nó, nên anh đã mất toi một con. Số là, khi bắt về, anh thả cả 3 con vào bể. Không ngờ, trong số đó, có 2 con đực, 1 con cái. Để giành cái, hai anh chàng cắn xé nhau và kết cục một anh chết nổi bụng.

Chú cá platinum rất hiếm, được anh Ngọc mua với giá 10.000 USD. 

Tuy nhiên, giờ đây, cặp quá bối đầu vàng của anh là độc nhất vô nhị. Mấy năm trước, một đại gia trả tới 40.000 USD cho đôi cá này, nhưng anh chỉ lắc đầu. Anh Ngọc bảo, 2 con cá bằng bàn tay đổi lấy một chiếc xe hơi cũng đáng kể, nhưng anh không thể bán nó, bởi bán nó đi rồi, không thể kiếm được con khác.

Đẹp và độc nhất phải kể đến chú cá platinum màu ánh thép của anh. Đây là chú cá vô cùng hiếm trên toàn thế giới. Vậy nhưng, ngày trước, anh mua được nó với giá cực rẻ, chỉ có 10.000 USD.

Theo giới thạo chơi cá, platinum là một dạng đột biến gen, nên vô cùng hiếm. Phải cả vạn con cá rồng, mới cho ra đời một con platinum. Chẳng thế mà, ở Hà Nội, cho đến nay, chưa ghi nhận có con platinum thứ hai. Nếu xét về vẻ đẹp, thì chưa chắc nó đã rực rỡ bằng quá bối đầu vàng, nhưng xét về độ hiếm, thì chắc khó có thể định giá được nó.

 
Platinum là loài đột biến gen. 

Anh Chính Ngọc cho biết: "Chơi cá rồng mới thấy thấm thía câu nói chơi cá dưỡng tâm, chơi chim dưỡng trí, chơi cây dưỡng thần". Theo anh, chính con cá rồng đã lấy lại thăng bằng cho cuộc đời anh.

Số là, ngày đó, anh bị trầm cảm nặng, vì công việc kinh doanh quá mệt mỏi, căng thẳng. Anh phải dùng thuốc an thần liều cao.

Trong một lần đi lang thang, lạc vào cửa hàng bán cá, anh bị những chú cá rồng hút hồn. Dáng bơi uyển chuyển, điềm tĩnh của loài cá xuất hiện trên trái đất cùng thời với khủng long này đã nhắc nhở anh nhiều điều về cuộc sống.

Ngắm loài cá từ thời cổ sinh, anh Ngọc thấy tâm hồn thanh thản. 

Sự oai phong, hùng dũng của những con cá rồng, đã khiến anh cảm thấy tự tin hơn. Anh còn tìm thấy cả triết lý sống trong dáng bơi của chúng. Thế là, lập tức anh dọn phòng khách để xây bể cá, biến phòng khách thành “thủy cung” của cá rồng.

Từ đó đến nay, ngày nào cũng vậy, hễ đi làm thi thôi, chứ về nhà, anh lại dành ít nhất 30 phút, hoàn toàn thư giãn ngắm những chú cá rồng. Anh bảo, đàn cá rồng là linh hồn của anh, nên không thể đem chúng ra mà định giá một cách thô thiển được.
- Theo VTC News

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

NGỤ NGÔN CÀ RÚA


Thấy Blog của Long Giang có bài hay, bèn rinh qua đây để xem dần:

 

Rùa và cá

Trong ngụ ngôn “Rùa và Cá” được nhiều người biết, cá chỉ biết có nước nên khi nói với rùa, cá dõng dạc kết luận rằng không có đất, bởi vì có những câu hỏi của cá đều được rùa trả lời là “không”.
Thuở xưa có một con cá. Cá chỉ biết trong nước và không biết gì ngoại trừ nước. Một hôm, cá mải mê bơi lội trong ao đầm quen thuộc như mọi hôm thì gặp lại chị Rùa. Hỏi ra thì hèn lâu rùa đi dạo trên đất liền. Cá hỏi: “Chào chị rùa, chị đi đâu mà hèn lâu tôi không gặp?”
- Này chị cá, chào chị. Hôm rày tôi đi một vòng lên trên đất khô. Rùa trả lời.
- Đất khô à! Cá lấy làm ngạc nhiên. Chị nói đất khô, vậy đất khô là gì? Đất làm sao khô được? Tôi chưa bao giờ thấy cái gì mà khô. Đất khô chắc là không có gì hết.

Bản tánh ôn hòa, Rùa nhỏ nhẹ đáp:
- Được, tốt lắm, nếu chị muốn nghĩ như vậy cũng tốt. Không ai ngăn cản chị đâu. Tuy nhiên, chỗ mà tôi đi mấy hôm rày đất khô thật.
- Nầy chị rùa, đâu chị nói rõ lại coi. Đất khô mà chị nói ra làm sao, giống như cái gì? Nó có ẩm ướt không?
- Không, đất khô không ẩm ướt.
- Đất khô có mát mẻ và êm dịu, dễ chịu không?
- Không, đất khô không mát mẻ và êm dịu dễ chịu.
- Đất khô trong suốt và ánh sáng rọi xuyên qua được không?
- Không, đất khô không trong suốt và ánh sáng không rọi xuyên qua được.
- Đất khô có mềm mại và dịu dàng để mình bơi lội trong ấy không?
- Không, đất khô không mềm mại dịu dàng, và mình không thể bơi lội trong lòng đất.
- Đất có di chuyển và trôi chảy thành dòng không?
- Không, đất không di chuyển và trôi chảy thành dòng.
- Đất có nổi sóng và tan ra thành bọt kông? Cá rất bực mình với loạt câu trả lời “không, không, …” của rùa.
- Không, đất không nổi sóng. Rùa thành thật trả lời.

Cá bỗng nhiên lộ vẻ hân hoan của người đắc thắng và vang lên:
- Thấy chưa, thật quả như tôi đã nói chớ gì nữa! Tôi đã bảo rằng đất khô của chị là hư vô, không có gì hết. Tôi hỏi và chị đã xác nhận rằng đất khô và không ẩm ướt, không mát mẻ, không êm dịu và không trong suốt, và ánh sáng không rọi xuyên qua được, không mềm mại và dễ chịu để mình có hể bơi lội trong ấy, đất cũng không di chuyển và trôi thành dòng, cũng không nổi sóng và cũng không tan rã thành bọt. Không phải gì hết thì có phải là hư vô không?

Rùa đáp:
- Được, tốt lắm. Nầy chị cá, nếu chị quả quyết rằng đất là hư vô, không có gì hết, thì chị cứ tiếp tục nghĩ như thế. Thật ra, người nào đã biết nước và đất liền rồi sẽ nói rằng chị chỉ là con cá dại dột, vì chị quả quyết rằng cái gì mà chị không biết là không có gì hết, hư vô. Nói là hư vô bởi vì chị không bao giờ biết.

Đến đây, rùa bỏ cá ở lại một mình với ao đầm nhỏ bé, quay đầu lội đi và suy tưởng đến một cuộc viễn du khác trên đất khô, nơi mà cá tưởng tượng là hư vô…

Câu chuyện lý thú nầy ngụ ý tuy rằng đã có sống trong nước và trên khô, rùa không giải thích cho cá bản chất thật sự của đất vì cá chỉ biết nước mà cá cũng không thể nhận thức được thế nào là đất liền, vì chỉ biết có nước thôi.

Trích trong Đức Phật và  Phật pháp

(Theo: http://blgiang.wordpress.com/2012/04/27/rua-va-ca/ --- MenKien - 12/5/2012 - 7h15)

SÁCH VỚI NƯỚC NHẬT


Tạp chí Tia sáng - 11/5/2012
Người Nhật mê đọc sách

Nguyễn Xuân Xanh

Thư viện Đại học Nghệ thuật Musashino
Cách đây 300 năm Nhật Bản đã có những con số “khủng” về giáo dục và văn hóa đọc. Những lý do nào khiến cho một dân tộc võ sĩ lại trở thành mê đọc sách như thế? Tại sao không phải các dân tộc có truyền thống văn sâu đậm như Trung Hoa hay Việt Nam mà lại một dân tộc có truyền thống võ như Nhật Bản?
Người ta đã từng nghe nói về sự đọc sách khủng của người Nhật thời Minh Trị Duy Tân, cách chúng ta hôm nay ngót một thế kỷ rưỡi. Thí dụ minh họa thường là quyển sách Bàn về Tự do, On Liberty, của John Stuart Mill. Sách được xuất bản ở Anh năm 1859, cùng năm với tác phẩm Thuyết tiến hóa của Charles Darwin. Bàn về Tự do là một quyển sách rất có ảnh hưởng ở phương Tây, và ngày nay vẫn còn tiếp tục được đọc. Khi được dịch sang tiếng Nhật quyển sách đã bán trên triệu bản.  

Một quyển sách khác, có lẽ ít được biết hơn đối với độc giả Việt Nam, là Tự lo, Self-Help của Samuel Smiles. Quyển sách này là best-seller ở phương Tây, đến cuối thế kỷ 19 bán được số lượng 250.000 bản ở Anh, Mỹ, nhưng khi được Nakamura Masanao, một học giả Khổng giáo từng học bên Anh, dịch sang tiếng Nhật những năm đầu của thời Minh Trị thì quyển sách bán đến một triệu bản! (Nakamura cũng là người dịch quyển Bàn về Tự do) Một con số thật “khủng” nếu ta biết rằng thời đó dân số Nhật Bản chỉ khoảng trên 30 triệu thôi. Self-Help là một trong ba quyển sách được gọi là “Bộ kinh thánh Minh Trị” có sức hút mãnh liệt đối với người Nhật, nhất là giới trẻ, trong giai đoạn đất nước đổi mới của Nhật Bản. 

Hai sự kiện sau đây ở thế kỷ 20 minh họa thêm óc tò mò học hỏi đặc biệt của người Nhật: 
Năm 1922 khi Einstein thực hiện lời mời sang thăm và diễn thuyết khoa học tại Nhật thì nước Nhật vừa có ngay một tuyển tập Einstein gồm bốn quyển. Lúc đó không đâu ở châu Âu hay ở Mỹ có tuyển tập này. Tương tự, ba năm trước đó, 1919, Nhật Bản cũng là nước đầu tiên xuất bản tuyển tập Karl Marx, Friedrich Engels. Cũng không đâu trên thế giới, kể cả Nga, Đức là những nơi có phong trào xã hội chủ nghĩa mạnh nhất thế giới có tuyển tập này. Người Nhật quả muốn biết hết những suy nghĩ gì của thế giới trước đó.

Con số phát hành 10.000 bản là rất đáng ghen tị cho những nhà xuất bản và tác giả Việt Nam hiện nay, đất nước với gần 90 triệu dân. Trong gần mười năm qua từ khi loại sách khai trí bắt đầu xuất hiện, có mấy tác giả nào có số ấn bản tương đương như thế? Cho nên số ấn bản 10.000 của người Nhật thời Tokugawa cách đây 300 năm quả là con số “khủng”! [Việt Nam lúc bấy giờ đang trong giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh, không hiểu giáo dục và văn hóa đọc sách ra sao.]
Công ty ra đời đầu tiên thời Minh Trị Duy Tân kinh doanh gì? Được sách sử ghi lại, đó là công ty nhập khẩu và kinh doanh sách Maruzen của Hayashi Yuteki. Năm 1869 ông Hayashi Yuteki mở công ty đầu tiên tại Yokohama có tên Maruya, và năm sau mở thêm cửa hàng thứ hai tại Nihonbashi, khu phố cổ trung tâm sầm uất và thời trang nhất của Tokyo lúc bấy giờ! Ngoài các hiệu sách, Maruzen còn xuất bản một nguyệt san cho giới văn sĩ, học thuật có tên “Ánh sáng của Khoa học”,Gakutō. Một thời gian dài Maruzen là cửa sổ duy nhất nhìn ra phương Tây. [Công ty sách này ngày nay vẫn còn tồn tại, hoạt động rộng rãi, có doanh số năm 1996 hơn một tỉ Euro với 2.100 nhân viên. Khách hàng của họ là nhiều đại học, cơ quan chính quyền và viện nghiên cứu.].


Một truyền thống lâu đời

Thực ra người Nhật đã có truyền thống đọc sách khủng lâu đời, ít ra từ thời Tokugawa 1600-1686. Trong thời đầu của Tokugawa Ieyasu, người thống nhất đất nước và lập nên triều đại Tokugawa hòa bình 265 năm lâu dài nhất lịch sử, thì chuyện một samurai có thể diễn đạt được ý tưởng của mình một cách mạch lạc trên giấy trắng mực đen là điều hi hữu, và tình trạng mù chữ là bình thường. Văn hóa Nhật Bản trước 1600 là văn hóa võ sĩ. Nhưng vào cuối thế kỷ 18, có thể nói một samurai mù chữ là một điều hụt hẫng đáng buồn, và tới giữa thế kỷ 19, tình hình lại khác nhau một trời một vực.

Trong thời Genroku (1688-1704), được xem là thời vàng son của Tokugawa với kinh tế ổn định, nghệ thuật và văn chương phát triển, Nhật Bản đã có một hệ thống xuất bản sách hiện đại đáng ngạc nhiên, đặc trưng bởi sự hiện hữu của nhiều nhà xuất bản lớn, nhiều nhà minh họa sách có tiếng và nhiều nhà văn tên tuổi. Sách thường được xuất bản với số lượng đến hơn 10.000 bản! Đây là một con số “khủng” thời đó; Nhật Bản lúc đó chỉ có chừng 20 triệu người, vì thời Minh Trị dân số Nhật Bản khoảng 30 triệu. Năm 1692 Nhật Bản cũng đã từng có những bộ danh mục hàng chục tập về các sách in dành cho công chúng sử dụng. (Hiện nay VN chưa có được những bộ danh mục như thế tại các nhà sách).

Thương mại sách ở Nhật bắt đầu phát triển mạnh từ đầu thế kỷ 17. Giới đọc sách truyền thống như quý tộc, tu sĩ và thượng lưu trong thành phố được mở rộng sang các giới đại chúng. Mặc dù số lượng phát hành cao, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu đọc sách của các tầng lớp dân chúng, văn hóa đọc sách thuê, ra đời trong thời Kan’ei (1624-44), trở nên phổ biến, đặc biệt tại các thành phố lớn như Edo, Kyoto và Nagoya. Các cửa hàng cho thuê sách, kashihonya, đóng vai trò quan trọng ở đây. Cuối thế kỷ 18 các cửa hàng cho thuê sách có mặt khắp nơi ở Edo (tức Tokyo) và các tỉnh. Khách hàng được phục vụ bởi những người đi rong mang thùng sách trên lưng. Sách vở có thể đi đến tận các hải đảo xa xôi. Edo có 650 cửa hàng cho mượn sách năm 1808, nhưng đến 1832 đã có tới 800. Edo có dân số khoảng hơn triệu, và tỉ lệ biết chữ lên đến 70%. Một cửa hàng cho mượn sách ở Nagoya, tên Daisō của Sōhachi, như lịch sử còn ghi, được thành lập năm 1767 và hoạt động 132 năm liền, đến khi chấm dứt hoạt động có một danh mục đến 26.768 quyển sách cho mượn.

Nhật Bản thế kỷ 18 có những thành phố lớn phát triển với dân số tập trung cao như châu Âu. Edo có trên một triệu dân, nhất thế giới, hơn cả Paris. Các thành phố khác như Osaka có con số non một triệu. Nhật Bản có văn hóa thành thị, có cả văn hóa salon (zashiki), đời sống sung túc rõ nét như ở châu Âu thời Trung cổ. Và đó cũng là điểm hấp dẫn đối với giới thương nhân nước ngoài khi họ kêu gọi Nhật Bản mở cửa. [Việt Nam lúc đó chưa được như thế về mặt phát triển kinh tế.]

Nguồn gốc đọc sách: văn đi trước võ

Sự học tại Nhật Bản trước 1600 là độc quyền của giới quý tộc và tăng lữ, nhưng đến thời Tokugawa trở thành công việc của cả nước. Năm 1615 tướng quân Tokugawa Ieyasu, sau khi đã bình định được gần ba trăm phiên trấn (han), thiết lập nên một thể chế chính trị gần như liên bang, phát đi mệnh lệnh như một ‘big bang’ cho các đại danh, daimyō, chủ phiên trấn và các võ sĩ,samurai: Điều 1 của mệnh lệnh nói: “bun bên tay trái, bu bên tay phải”. Bun là văn, sự học, là cây bút, trong khi bu là võ, nghệ thuật chiến tranh, từ đó chữ bushi là võ sĩ, bushido là võ sĩ đạo. Như thế Điều 1 nói “quyển sách bên tay trái, thanh gươm bên tay phải”, và văn đi trước võ, để có thể trị nước lâu bền. Các võ sĩ Nhật dần dần trở thành giai cấp cầm quyền có học. Ở Nhật Bản, cầm quyền là việc của giai cấp samurai, cha truyền con nối, không phải việc của các Khổng nho như ở Trung Hoa hay Việt Nam, Triều Tiên. Khổng nho cao lắm chỉ được làm tư vấn với đồng lương thấp. Nhật Bản cũng có xếp hạng “sĩ, nông, công, thương” (shi, nō, kō, shō) dưới ảnh hưởng của Khổng giáo Trung Hoa, nhưng ở đây sĩ không phải là nho sĩ, mà là võ sĩ.

Các daimyō giờ đây phải học văn hóa, các loại khoa học và nghệ thuật quản lý đất nước. Một daimyō có học phải đọc sách hằng ngày. Để phục vụ cho việc học tập của daimyō, và các gia thần, thư viện được thành lập, sách vở được sưu tầm một cách qui mô, và trở thành biểu tượng cho tri thức. Thư viện bao gồm các loại sách về lịch sử Nhật Bản và Trung Hoa, các sách về Khổng giáo, Phật giáo và Thần giáo; sách về nghệ thuật quân sự, chiến lược quân sự, địa lý, thiên văn, kinh tế, toán học, y khoa và vô số sách về văn chương cổ điển. Bản thân tướng quân Ieyasu từng lập thư viện cho mình. Nhật Bản mỗi thời đều có những thư viện nổi tiếng, nhưng vào thời Tokugawa, Nhật Bản có nhiều thư viện nhất chưa bao giờ thấy trước đó. 

Phát triển giáo dục

Văn hóa đọc sách gắn liền với giáo dục. Tokugawa là thời kỳ của sự bùng nổ giáo dục, hệ thống trường học, phục vụ cho nhiều đối tượng, nhiều đẳng cấp, trường trung ương của shogun, trường phiên của các daimyō, trường tư, cho dân thường và trường hỗn hợp cho cả samurai và dân thường. Vài con số dưới đây sẽ làm chúng ta thêm ngạc nhiên để thấy mối tương quan giữa văn hóa đọc và giáo dục.

Ngoài những trường chính thống dành cho giai cấp samurai của Mạc phủ, như “Hàn lâm Khổng giáo”, Shōheikō, thành lập năm 1630, và trường của các phiên, còn có các loại trường như trườngterakoya cho thường dân; trường gōgaku dành cho cả con em samurai lẫn thường dân học chung, được chính thức hỗ trợ từ nhà nước, báo trước loại giáo dục hiện đại phi đẳng cấp sẽ ra đời thời Minh Trị. Ngoài ra có loại trường tư thục, shijuku, private academies, với khoảng 1.500 trường, từ qui mô nhỏ vài ba chục đến qui mô lớn cả ngàn sinh viên, cạnh tranh với các trường trung ương hay trường phiên, dành cho cả samurai và thường dân mọi tầng lớp.

Tại phiên Chōshū, một trong những phiên quan trọng trong việc lật đổ Mạc phủ để phục hồi Thiên hoàng, nhiều samurai nổi loạn và trở thành lãnh đạo của Chính phủ Minh Trị đã từng là học trò của nhà yêu nước Yoshida Shōin (1830-1859) tại trường tư thục do ông thành lập. Shijuku thường phục vụ cho giáo dục cao cấp (advanced education), đi vào nghiên cứu, là trường của những người muốn tiến thân vào học thuật. Đó là loại trường “vườn ươm nhân tài”, bất kể từ đâu đến, samurai hay thương gia, thầy tu, tạo nguồn nhân lực quốc gia, jinzai (nhân tài, human resource), điều cũng được các giới chính quyền Trung ương và địa phương ủng hộ.  Theo tinh thần của jinzai, việc tuyển mộ nhân sự được dựa trên cơ sở tài năng hơn là nguồn gốc thân thế, và tài năng có thể đi từ phiên này sang phiên khác sống. Ngoài ra còn các trường dạy nghề và trường tôn giáo.

Năm 1868 khi Nhật Bản Minh Trị bắt đầu cuộc duy tân, cả nước đã có 17.000 trường đủ mọi loại! Đây cũng là một con số ‘khủng’ nữa. Hàng triệu người đã được học hành. [Việt Nam có được bao nhiêu trường học và học sinh lúc đó? Nam Kỳ lúc đó vừa trở thành thuộc địa Pháp.] Có một ước tính theo đó cuối thời Tokugawa Nhật Bản có khoảng trên 40 phần trăm con trai và 10 phần trăm con gái nhận được giáo dục ngoài gia đình. Nhà nước không sợ sự phát triển giáo dục trong nhân dân, và dân chúng cũng đồng tình để cải thiện vị trí xã hội của mình. Phát triển đất nước cần những người có học. “Việc đầu tiên cần thiết cho sự trị vì một nhà nước là năng lực con người. Mà năng lực con người thì đến từ sự học” như học giả Khổng giáo Dazai Jun (1686-1747) viết.

Qui mô của trường Nhật cũng không kém phần ngạc nhiên. Trường Shōheikō được xây dựng lại năm 1799 thực tế không phải là một ngôi trường, mà là một campus to lớn, nhiều dãy nhà ngang dọc, nhiều đường phố trong đó, với một đền thờ Khổng tử lớn tại trung tâm, nó là một cái làng học thuật và đào tạo đúng hơn là một cái trường đơn giản theo quan niệm của chúng ta. TrườngNisshinkan tuy có thể nhỏ hơn nhưng cũng rất lớn. Chúng ta biết rằng tại Hoa Kỳ, các đại học dạng campus hình thành chủ yếu từ Luật giao đất Morrill năm 1862 trước khi cuộc nội chiến chấm dứt. Phải chăng, xét về qui mô, các trường của Nhật Bản thời Tokugawa đã đi trước các Đại học campus của Mỹ gần cả trăm năm?

Nước Nhật bước vào hiện đại hóa không phải từ tro tàn của chế độ cũ, mà ngược lại, được xây dựng trên một nền móng văn hóa đã phát triển cao, đa dạng về nội dung học, và vững chắc. Năm 1872 (cũng là năm sinh của cụ Phan Châu Trinh), tức chỉ bốn năm sau khi vua Minh Trị được phục hồi, một chế độ giáo dục cưỡng bách toàn dân được thực hiện trên khắp nước Nhật, một kỳ công. Điều này sẽ khó có thể được nếu Nhật Bản Tokugawa không có gì cả. Năm 1900 Nhật Bản có tỉ lệ người biết chữ cao hơn tỉ lệ của Anh. Đó là một môi trường văn hóa tốt và thiết yếu cho sự phát triển mạnh của khoa học và kỹ thuật.

Nếu đầu thời kỳ Tokugawa lưỡi gươm là quan trọng, thì vào cuối thời Tokugawa thì quyển sách là quan trọng hơn.

Trước áp lực của nguy cơ nước ngoài sự học cổ điển dần dần được hiện đại hóa bằng các môn học phương Tây. Các môn tri thức quân sự, luyện kim, vẽ bản đồ, y khoa, hóa học…, cũng như các môn học về các thể chế chính trị, kinh tế các quốc gia phương Tây có sức hút mạnh mẽ. Các daimyō biết nhìn xa gửi sinh viên tài năng đi học tại Nagasaki hay tại những trường Lan học tại Edo và Osaka. Và trong những năm 1850, 1860 họ thành lập các trung tâm Tây học tại các phiên của họ. Các nhà lãnh đạo của Minh Trị Duy Tân như Saigō của phiên Satsuma, Kido, Itō và Inoue của Chōshū, Soejima và Okuma của Saga, Gotō, Sakamoto và Sasaki của Tosa, Yuri của Fuki, Mutsu và Katsu của Mạc phủ, tất cả đều đã một lần học tại Nagasaki, trung tâm Lan học hiện đại của cả đất nước.

Sự phát triển giáo dục thời Tokugawa gắn liền với sự phát triển văn hóa Edo. Edo là thời kỳ của nghệ thuật và học thuật. Tokugawa chọn con đường đóng kín không phải để suy tàn, mà ngược lại, để phát triển bản sắc Nhật Bản không bị phá rầy, đưa sức sống của dân tộc lên đỉnh cao văn hóa và nghệ thuật, vun xới đạo đức và bản sắc. Đó là thời kỳ của sự tự tôi luyện, sự quyết tâm tự khẳng định mình, biến đổi miếng đất hoang sơ thành một vườn hoa sặc sỡ, phát triển các hình thái nghệ thuật lên cao nhất, để bản sắc Nhật Bản trở thành nền tảng không lung lay được trong thời mở cửa xáo trộn sau, để tài năng Nhật Bản được tinh luyện làm niềm tin của dân tộc. Khi mở cửa, nghệ thuật Nhật Bản đã chinh phục được các quốc gia phương Tây và quốc gia được nể phục.
 
Lan học, cuộc dịch thuật vĩ đại

Còn một sự kiện ‘khủng’ khác cần được nói lên  ở đây. Đó l�cuộc dịch thuật vĩ đại hai thế kỷ của giới trí thức Nhật Bản trong thời Tokugawa tự đóng cửa. Sáu năm sau khi Copernicus qua đời (1543) và tác phẩm cách mạng Về chuyển động quay của các thiên thể xuất bản, Nhật Bản tiếp xúc với những người phương Tây đầu tiên. Nhưng năm mươi năm sau, Nhật Bản, như chúng ta biết, chọn con đường đóng kín cửa, “toả quốc”, sakoku, từ 1640 (Việt Nam từ 1630), khi thấy sự phát triển của Kitô giáo là nguy hiểm cho tinh thần dân tộc và cho quyền lực. Nhật Bản chỉ chừa một cửa thông thương duy nhất với Hà Lan tại Dejima, Nagasaki. Sự đóng kín này kéo dài cho đến hết thời Tokugawa năm 1868. Vậy mà trong điều kiện đó, đây là điều Việt Nam không có, trí thức Nhật Bản đã làm một cuộc dịch thuật vĩ đại sách vở phương Tây. Tuy không quyển sách nào thóat khỏi bàn tay kiểm duyệt nghiêm ngặt của Mạc phủ, tuy giới học giả phải làm việc trong điều kiện khó khăn, đôi khi phải trả giá bằng tính mệnh, nhưng họ đã làm nên một cuộc dịch thuật vĩ đại từ cái được gọi là Lan học, rangaku, Dutch learning  (“Lan” là gọi tắt của Hà Lan), bắt cầu cho khai trí, khoa học, kỹ thuật để Minh Trị Duy Tân bước tới mạnh mẽ. 

Trí thức Nhật, nhất là giới bác sĩ, đặc biệt chú ý đến khoa học kỹ thuật từ châu Âu qua các tác phẩm dịch từ tiếng Hà Lan. Họ nhìn thấy trong đó một nền văn minh mới xuất hiện, và ý thức rằng, nếu một ngàn năm trước Nhật Bản đã từng gửi học giả và tăng lữ sang Trung Hoa để học văn hóa, thì nay, họ cũng đang đứng trước một nền văn minh mới đồ sộ cần phải học hỏi, và họ phải tự học trong sự dè chừng của Mạc phủ. Qua Lan học- hay Tây học qua tiếng Hà Lan - người Nhật học hầu như tất cả các môn khoa học và công nghệ phương Tây: y khoa, sinh học, thiên văn, toán học, vật lý, hóa học, điện, cơ học, máy bơm, đồng hồ, máy hơi nước, kính thiên văn, kính hiển vi, luyện kim, đúc súng, đóng tàu…Họ thường xuyên theo dõi sự tiến bộ khoa học công nghệ châu Âu. Các thương nhân Hà Lan ngay từ đầu được Mạc phủ yêu cầu hằng năm viết báo cáo (fūsetsugaki) cho chính phủ tướng quân về tình hình thế giới, và về cuộc cách mạng công nghệ và khoa học ở châu Âu. 

Chỉ có đọc sách với tinh thần người Nhật là muốn hiểu biết thế giới đã, đang nghĩ gì, làm gì để tái tạo tinh hoa thế giới và sáng tạo cái mới làm giàu đất nước Việt Nam, mới giúp cho chúng ta đọc sách mãi mãi không thôi, đọc cuồng nhiệt trong thế giới tri thức vô tận. Và chỉ trên cơ sở đó, văn hoá đọc mới có thể thăng hoa.
Từ thế kỷ 18, tức khoảng một thế kỷ sau tác phẩmPrincipia của Newton, các học giả Lan học đã nắm bắt được vật lý Newton, họ đã dịch được các khái niệm như “trọng lực” (jūryoku), “lực hút” (inryoku), “lực ly tâm” (enshinryoku), “khối tâm” (jūten, centre of mass) vẫn còn được sử dụng ngày nay. Các học giả Lan học đã hiểu các hiện tượng điện, tĩnh điện, hiểu nguyên lý ắc-quy của Volta đầu thế kỷ 19, chỉ mấy năm sau khi Volta phát minh ở châu Âu. Họ hiểu hóa học của Lavoisier, có thể chế tạo kính thiên văn không lâu sau Hans Lippershey và Galilei đầu thế kỷ 17; chế tạo đồng hồ, máy bơm, súng hơi, chế tạo những con búp bê cơ khí tự động phục vụ trà. Đặc biệt máy hơi nước được Nhật Bản chế tạo lần đầu tiên năm 1853. Người Nhật đã đóng được tàu chiến chạy hơi nước chỉ hai năm sau cuộc gặp gỡ lịch sử với Commodore Perry 1853. Tất cả cũng chỉ dựa trên bản vẽ. Một quan chức Hà Lan bình luận rằng “Tuy có những sự không hoàn chỉnh về chi tiết, nhưng tôi phải ngả mũ trước dân tộc thiên tài có khả năng chế tạo những thứ này mà họ không hề thấy một chiếc máy thực ngoài đời, chỉ dựa trên các bản vẽ đơn thuần”.


Cuộc dịch thuật diễn ra trong hai thế kỷ với hàng ngàn cuốn sách được xuất bản và truyền bá trong giới học thuật, làm cho người ta nhớ đến cuộc dịch thuật vĩ đại văn minh Hy Lạp cổ đại và Ả Rập vào châu Âu hai thế kỷ 11 và 12 đúng lúc đại học châu Âu đang hình thành, làm cho đại học và khoa học châu Âu phát triển mạnh mẽ. Chỉ có khác một điều: trong khi cuộc dịch thuật ở châu Âu được phần lớn các học giả Ả Rập thực hiện thì ở Nhật Bản cuộc dịch thuật được do chính người Nhật thực hiện, những người được đào tạo từ một nền văn hóa rất khác. Phương Đông chưa có cuộc dịch thuật nào như cuộc dịch thuật Nhật Bản phản ảnh trung thực nền khoa học kỹ thuật phương Tây. (Cuộc dịch thuật ở Trung Hoa bởi các nhà truyền giáo bóp méo một phần khoa học vì mục tiêu truyền giáo, và gặp sức ỳ mãnh liệt của sự tự mãn văn hóa Trung Hoa). Đây là một sự lặp lại kỳ thú của lịch sử giữa Tây và Đông. Hai trăm năm dịch thuật ở Nhật Bản Tokugawa cũng là thời gian tại châu Âu diễn ra các cuộc cách mạng khoa học, công nghiệp dữ dội, tạo nên sự mất cân bằng lực lượng nghiêm trọng trên thế giới dẫn tới thay đổi lớn lao chưa từng có trong lịch sử loài người. Người Nhật đã biết tiếp cận các cuộc cách mạng đó từ xa để chuẩn bị mình.

Người Nhật không thể yêu nước trong sự mê muội, vô minh, lại càng không yêu nước bằng những nội dung khuôn sáo không thực chất. “Chúng ta cảm thấy xấu hổ làm sao khi khám phá ra sự ngu dốt của mình” với tư cách là người phục vụ đại danh và đất nước, như một lời tự thú của Sugita Gempaku (1733-1817), một bác sĩ tên tuổi và là người đã tạo cú hích quan trọng cho Lan học cuối thế kỷ 18, sau khi ông chứng kiến rằng cấu trúc của cơ thể con người không giống như sách vở của Trung Hoa hay Nhật Bản bấy lâu nay, mà giống chính xác các bản vẽ cơ thể học của một quyển sách từ phương Tây (Tafel Anatomia), sau đó được Gempaku và các đồng nghiệp dịch ngay sang tiếng Nhật, tạo cú hích mạnh mẽ cho phong trào Lan học. 

Kết luận


Nói tóm lại, Nhật Bản là một dân tộc có óc tò mò không bao giờ nguôi, tinh thần khao khát học hỏi cái mới mãnh liệt không bao giờ tắt, và khả năng hiểu biết nhanh chóng, để hoàn thiện mình, để bảo vệ đất nước, để “kiểm soát những người man di bằng tri thức của họ”, và vì thế họ đọc sách dữ dội, và đã thành công dữ dội. Thế kỷ thứ bảy và tám họ đã từng vượt biển trong hiểm nguy để học văn hóa Trung Hoa đem về xây dựng nền tảng văn hóa riêng của họ. Rồi một ngàn năm sau, cũng trong khó khăn và nguy hiểm, giới trí thức đã tiến hành cuộc dịch thuật văn hóa phương Tây hai thế kỷ liền, và từ 1868 trở đi một cách bùng nổ, để có thể nhanh chóng hiện đại hóa đất nước với mục tiêu trở thành ngang bằng với các cường quốc phương Tây. Đó là hai sự kiện trọng đại nhất trong lịch sử văn hóa nước Nhật. Và họ đã thành công. Họ bỏ lại Trung Hoa từng là trung tâm văn hóa đối với họ, để rồi chính Trung Hoa sau đó phải học lại họ. Nhật Bản đã từng trở thành trung tâm văn hóa mới và niềm hy vọng ở phương Đông, thay thế cho cái trung tâm Trung Hoa cũ đang rệu rã.

Nhật Bản là tấm gương “tổng hợp văn hóa Đông Tây” của thế giới mà không mất đi bản sắc sâu đậm của mình. Họ là một tấm gương tuyệt vời của sự tự-khai trí vươn lên. Họ đóng cửa mà không hư hỏng hay hỗn độn. Ngược lại, họ đóng cửa để phát triển các tố chất dân tộc thành tinh hoa, làm bước chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp vững chắc, không chao đảo khi mở cửa ồ ạt thời Minh Trị. Họ là một dân tộc văn hóa đáng kính phục. 

Vĩnh Thuận - 11/5/2012

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

Nhạc cổ điển có gì hỏng?


Theo Nguyen Dinh Dang's Blog
Colin Eatock

Nguyễn Đình Đăng, “Piano câm”,
sơn dầu, 60.5 x 72.5 cm, 2001

Trong thế giới phương Tây ngày nay, nhạc cổ điển không chỉ đơn thuần bị khủng hoảng về tính đại chúng, mà còn bị khủng hoảng về mục đích và tính chính thống.


Mỗi ngày trên đường đi làm tôi đều qua ga tàu điện ngầm phố Bathurst ở Toronto. Đôi khi, vào những ngày không đi trễ, tôi dừng lại để lắng nghe nhạc cổ điển do Sở Giao Thông Công Cộng Toronto (SGTCCT) mở trong nhà ga. Tuy nhiên, trong khi được bắt đầu ngày làm việc của mình một cách nhẹ nhàng bằng một bản giao hưởng của Mozart hay một concerto Vivaldi, tôi cũng hiểu rằng SGTCCT không hẳn đã nhằm thỏa mãn thị hiếu âm nhạc đặc biệt của tôi. Họ làm như vậy vì một động cơ khác.Ga tàu điện ngầm phố Bathurst là một ngã tư đa văn hóa tại trung tâm thành phố, và gần đó có một số trường phổ thông cấp ba. Trong số những người đi tàu điện ngầm qua ga này có hàng ngàn thanh niên nguồn gốc khác nhau – một sự pha trộn biến động liên tục, luôn có nguy cơ sôi trào lên. SGTCCT đối phó với mối đe dọa này bằng cách mở nhạc cổ điển.


Việc mở nhạc cổ điển ở những địa điểm công cộng đang ngày càng phổ biến tại các trung tâm mua sắm, bãi đậu xe, và những nơi khác, những chỗ mà đám đông và những kẻ vô công dồi nghề có thể gây chuyện. SGTCCT hoàn toàn không phải là hãng giao thông công cộng duy nhất sử dụng kỹ thuật này: Vào năm 2005, sau khi nhạc cổ điển được phát trong đường tàu điện ngầm London, số vụ cướp bóc, tấn công, và phá phách đã giảm đi đáng kể. Những kết quả tương tự cũng đã được ghi nhận từ Phần Lan tới New Zealand. Ý tưởng này có thể là một sự cách tân phát xuất từ Canada. Vào năm 1985, một cửa hàng 7-Eleven ở Vancouver đã đề xuất kỹ thuật này, và sau đó các nơi khác đã nhanh chóng áp dụng. Ngày nay, khoảng 150 cửa hiệu 7-Eleven trên khắp Bắc Mỹ mở nhạc cổ điển bên ngoài cửa hiệu của họ. 


Là một người yêu nhạc cổ điển, tôi muốn tin rằng thứ nhạc tôi yêu thích có hiệu ứng kỳ diệu lên con người – rằng nó giúp bỏ bùa ngay cả những kẻ thô lỗ dã man theo một lối riêng [1]. Tôi muốn nghĩ rằng nhạc cổ điển bằng cách nào đó có thể kích thích những khát vọng cao thượng hơn trong tâm trí của một tên cướp giật, khiến hắn từ bỏ thứ việc kiểu này để chuyển sang làm việc gì đó ổn định hơn và đem lại lợi ích cho xã hội. 


Nhưng tôi biết rõ sự thật lạnh lùng là người ta thường cố tình mở nhạc cổ điển ở những nơi công cộng với mục đích khiến một số thành phần trong xã hội cảm thấy không được hoan nghênh. Mở nhạc cổ điển đã được mô tả như một thứ “thuốc xịt bọ dùng âm nhạc“, như một hành động biến nhạc cổ điển thành vũ khí. Việc mở nhạc cổ điển tại ga tàu điện ngầm phố Bathurst phát ra một thông điệp rõ ràng: “Các người hãy giữ trật tự và đi nhanh lên; đây không phải là tụ điểm văn hoá của các người đâu.” 


Một số nhà xã hội học lo ngại rằng sử dụng nhạc cổ điển theo cách này chỉ tiếp tục gây chia rẽ trong xã hội theo tuổi tác, giai cấp và sắc tộc. Và, thật không ngạc nhiên là một số người trong cộng đồng âm nhạc cổ điển cảm thấy bị xúc phạm khi thấy nghệ thuật của họ có thêm mục đích mới này. Nhà phê bình âm nhạc người Anh Norman Lebrecht đã viết rằng việc sử dụng nhạc cổ điển như một công cụ cảnh sát đã “đánh tụt phẩm giá của một trong những vinh quang vĩ đại của nền văn minh.” 


Tuy nhiên, thực ra không phải lỗi của những người liên quan đến trật tự an toàn công cộng đã khiến nhiều thanh niên có ác cảm với âm nhạc cổ điển – đặc biệt là những thanh niên xuất thân từ những nền kinh tế và văn hóa chưa bao giờ chấp nhận âm nhạc cổ điển phương Tây. Những người quản lý cài đặt các loa phóng thanh và mở nhạc là những người thực dụng đang lợi dụng khía cạnh văn hóa – xã hội đã có để giải quyết vấn đề. Hướng sự công kích vào họ, như Lebrecht đã làm, thực ra là “giận cá chém thớt” [2]. 


Vì sao nhiều thanh niên không thích nhạc cổ điển? (Trong số tôi gọi là thanh niên có cả những người ở độ tuổi 40 – 50 và lớn tuổi hơn, những người mà thẩm mỹ âm nhạc đã được hình thành khi còn là vị thành niên).  Gần đây tôi có làm một thăm dò với một số sinh viên lớp thưởng thức âm nhạc do tôi dạy tại đại học Toronto. Tôi hỏi nguyên nhân gì khiến họ cho rằng nhạc cổ điển không hấp dẫn. Đại khái, những nguyên nhân họ nêu ra có thể được chia thành hai loại: một số không thích âm thanh của nhạc cổ điển, một số khác không thích cái văn hóa vây quanh nhạc cổ điển. Ngoài các ý kiến của sinh viên, tôi cũng thêm vào một số suy nghĩ của tôi dựa trên những phê phán về nhạc cổ điển mà tôi từng gặp từ nhiều năm nay. Dưới đây tôi liệt kê những lý do, hay ít nhất những cách nhìn nhận, vì sao nhiều người trong xã hội lại tránh xa thứ âm nhạc tôi yêu thích như vậy. 


Nhạc cổ điển quá đầu óc, thiếu cảm xúc xác thịt. Các bản nhạc thường quá dài. Nhịp điệu (rhythm) nói thẳng ra là yếu, và hầu như không có phách (beat), và nhịp độ (tempo) có thể lê thê ảm đạm như đưa đám. Giai điệu tẻ nhạt và thường là không có giai điệu thực sự mà chỉ là sự kéo dài những phối âm rắc rối. Âm thanh của dàn giao hưởng thì nhạt nhẽo và tinh tế quá mức, và thậm chí cả một dàn nhạc giao hưởng lớn cũng không thể tạo được sức mạnh của một nhóm tứ tấu nhạc rock [3] biểu diễn tại sân vận động. Rất nhiều tác phẩm nhạc cổ điển hoàn toàn là khí nhạc, do đó, không có ca từ để giải nghĩa cho âm nhạc. Ngay cả trong thanh nhạc như opera, giọng ca của nhiều ca sĩ là giả tạo, không tự nhiên: rít và rống rất nhiều. Khó mà hiểu những lời họ hát, ngay cả khi họ không hát tiếng ngoại quốc. 


Đứng trên bình diện văn hóa mà nói, nhạc cổ điển đóng vai trò thật không đáng kể, khi doanh thu nếu đem ra đọ thì sẽ chỉ là trò cười đối với công nghệ nhạc pop [4]. Nhạc cổ điển không được đại chúng yêu chuộng, vì thế nó không thể sống được trong thị trường tự do, mà phải luôn yêu cầu chính phủ trợ cấp để tồn tại. Tuy nhiên, ngay cả sau khi đã nhận được sự hỗ trợ từ công quỹ, giá vé đi nghe các buổi hòa nhạc cổ điển vẫn ở mức cắt cổ. Các buổi hòa nhạc cổ điển luôn diễn ra trong bầu không khí ngột ngạt và gò bó vì các khuôn phép – và cái đám thính giả ít ỏi lão hóa đi nghe nhạc cổ điển thực sự là một đám ô hợp của những kẻ kênh kiệu lẫn với một lũ “tinh vi”, và một bọn làm bộ ra vẻ như đang đánh giá cao một cái gì đó mà thực sự thì không. Tóm lại, nhạc cổ điển là “tinh hoa”: vốn chỉ được dành cho những ông Tây giàu có – những người nghĩ rằng họ đứng cao hơn những người khác, và được viết ra bởi một đám đàn ông da trắng chết rồi. Nhạc cổ điển không có gì để làm trong thế giới đương đại – và sự già nua của nó chỉ còn hấp dẫn những ai còn cố bám vào các giá trị lỗi thời. Quý vị nói rằng hiện vẫn còn có những nhà soạn nhạc viết nhạc cổ điển? Chẳng bao giờ được nghe nói về họ. 


Hai đoạn trên đây là một sự cóp nhặt các thái độ, chứ không phải là một bài phê bình thống nhất. Ví dụ, những than phiền rằng nhạc cổ điển không thể tồn tại mà không cần trợ cấp là một sự phản đối kiểu cánh hữu, trong khi lập luận âm nhạc “tinh hoa” mang xu hướng cánh tả. Các quan điểm đó không hoàn toàn đúng. Giá vé không phải lúc nào cũng cao không chịu nổi. Một số buổi hòa nhạc cổ điển được tổ chức miễn phí. Và thính giả chắc chắn nhiều hơn bọn kênh kiệu, bọn “tinh vi”, và bọn làm bộ. Hơn nữa, liệu có công bằng không khi chửi Bach, Beethoven và Brahms là bọn đàn ông da trắng chết rồi? Không có vẻ gì là Bach, Beethoven, hay Brahms đã lựa chọn những điều đó. Nhưng bất kể những phản đối này đúng hay sai, công bằng hay không, chúng đã góp phần vào việc đào thải nhạc cổ điển trên diện rộng. 


Cá nhân tôi không chia sẻ những điều tôi đã cố gắng tóm tắt trên đây, trái lại, chúng làm tôi đau đớn. Và đau nhất là chúng được phát ra không chỉ từ mồm những người bằng lòng sống trong thế giới văn hóa của nhạc pop, truyền hình, và các trận đấu của các liên đoàn thể thao lớn, mà còn từ nhiều người sành điệu tích cực quan tâm đến phim ảnh, văn học, sân khấu và các nghệ thuật khác. Đây là chính là loại người, mà một vài thế hệ trước, từng cảm thấy nhạc cổ điển là âm nhạc “của họ”. Tuy nhiên, ngày nay, ngay cả đối với một số trí thức thiên về nghệ thuật, nhạc cổ điển cũng thường được coi như một món ngoại lai. Những fan còn sót lại của nhạc cổ điển nhận thức rõ về tình trạng bên lề của họ. Giống như các tín đồ Mormon, những người ăn chay, hay những người Mác-xít, họ là cư dân của một thứ tiểu văn hóa xa lạ, bên ngoài dòng chính. 


Trong thế giới phương Tây ngày nay, nhạc cổ điển không chỉ đơn thuần bị khủng hoảng về tính đại chúng, mà còn bị khủng hoảng về mục đích và tính chính thống. Trong khi tôi không chia sẻ quan điểm của một số người gieo hoang mang rằng toàn bộ toà dinh thự sẽ sụp đổ bất kỳ lúc nào trong tương lai gần, tôi tin rằng cần có hành động khẩn cấp, nếu chúng ta muốn cứu hình thức nghệ thuật này khỏi sự cảm nhận rằng đó là một vị hoàng đế cởi truồng, chẳng đóng góp gì nhiều cho thế giới hiện đại. Tất nhiên, nói thì dễ. Trong khi một số điểm từ các lo ngại mà tôi đã nói trên đây có thể được giải quyết dễ dàng, những điểm khác tỏ ra khó khăn hơn, mà chưa chắc có thể làm nên cơm cháo gì. Ta hãy bắt đầu với những điều dễ trước.


Nhạc cổ điển bị mắc kẹt trong các truyền thống của chính nó 


Văn hóa nghe nhạc cổ điển có nguồn gốc từ thế kỷ XIX. Thời đó người ta công khai phân biệt giai cấp, và đi nghe “âm nhạc đỉnh cao” là một minh chứng hùng hồn cho địa vị xã hội của mình. Nghi thức trong buổi hòa nhạc đã được nuôi cấy trong môi trường này dựa trên các thang giá trị về hình thức, sự trang trọng, và chuẩn mực của tầng lớp thượng lưu. Tuy nhiên những cái mà thời đại này coi là chính thức, trang trọng, và phù hợp có thể trở thành cứng nhắc, nhàm chán và gò bó trong một thời đại khác – và đó chính là thời đại của chúng ta hôm nay. Nhiều thứ phải được thay đổi đề cải tổ cơ bản cách nhìn phổ biến về buổi hòa nhạc cổ điển. 


Thực ra người ta đã bắt đầu các cải cách theo hướng này. Nhiều dàn nhạc hiện nay có những “buổi hòa nhạc bình dân”: thính giả được khuyến khích ăn mặc bình thường, và các nhạc trưởng giải thích cho thính giả về âm nhạc được diễn trong chương trình. Truyền thống nhạc trưởng vận áo đuôi tôm, thắt nơ trắng cũng dần trở nên lỗi thời,  đang phai mờ dần đi. 


Có cả những thay đổi khác, gây nhiều tranh cãi hơn. Không vỗ tay giữa các chương là một quy tắc mà một số người (như Alex Ross, nhà phê bình âm nhạc của tờ The New Yorker) muốn bãi bỏ.  Nó không tổn tại trong t.k. 18 – 19. Thậm chí ý tưởng táo bạo dựng màn hình khổng lồ trong phòng hòa nhạc để khán giả có thể vừa nghe vừa đồng thời nhìn thấy các nhạc công từ các góc nhìn khác nhau, hay nhìn cận cảnh tay của pianist, đã được thực hiện ở vài nơi. Công nghệ này tốn kém, nhưng đầu tư vào việc này đã làm nên một cuộc cách mạng trong cách tổ chức các buổi hòa nhạc, tương tự như việc cho chạy chữ điện tử ca từ đã cách mạng hóa thế giới opera 25 năm trước đây. Một số tổ chức âm nhạc còn đặt câu hỏi liệu các phòng hoà nhạc có còn là những nơi tốt nhất cho các buổi hòa nhạc hay không: Các địa điểm khác, ít trịnh trọng và giàu tưởng tượng hơn có thể phục vụ tốt hơn cho việc cập nhật hình ảnh của âm nhạc cổ điển. 


Tất cả những ý tưởng này đều hấp dẫn. Tuy nhiên, một số sáng kiến nhằm thu hút khán giả mới cần minh bạch hơn so với các thủ đoạn tiếp thị chỉ nhằm mục đích duy nhất là làm thế nào khán giả ngồi kín chỗ trong phòng hoà nhạc. Trước hết, các tổ chức âm nhạc cổ điển cần tạo ấn tượng rằng họ thực sự muốn tự thân hoà nhập với thời cuộc, chứ không phải là đang vừa bị lôi kéo vào thế kỷ 21, vừa giãy giụa vừa la hét. Làm theo cách mới chưa đủ, mà còn cần thuyết phục “thế hệ trẻ” rằng họ không bị mồi chài, và sự nỗ lực quyến rũ họ quan trọng hơn nhiều so với chỉ “chém gió” hay những hành vi tuyệt vọng. 


Những rắc rối với nhạc mới 


Thật không may, khi chuyển từ những thách thức trong cải tổ môi trường của buổi hòa nhạc sang cải tổ các tiết mục hòa nhạc, mọi việc trở nên khó khăn hơn nhiều. Một trong những vấn đề hóc búa nhất trong chương trình biểu diễn ngày nay là âm nhạc cổ điển đương đại. 


Trong thế kỷ XX, nhiều nhà soạn nhạc cổ điển đã chấp nhận một lập trường phản thẩm mỹ, cố ý viết nhạc khó hiểu, ngược hẳn giá trị thẩm mỹ của âm nhạc mà hầu hết mọi người từng nghe. Đối với một số nhà soạn nhạc, việc không được quần chúng ưa chuộng lại được xem như là có giá trị như một huy chương danh dự. Những lý tưởng sai lầm như vậy không lưu hành trong nhạc pop: trong khi nhạc jazz, rock, rap quả có gặp một số cản trở ban đầu, chúng đã nhanh chóng trở thành phong cách chủ đạo, thu hút hàng triệu fan. Ngược lại, các nhà soạn nhạc cổ điển đương đại đã bị chìm sâu vào quên lãng đến nỗi ngày nay hầu như ít ai còn biết đến sự tồn tại của họ. 


Trớ trêu thay, các nhà soạn nhạc của thế kỷ XX, những người từng tuyên bố mình là những nhà vô địch của kỷ nguyên hiện đại, đã viết ra một loại nhạc thiếu tính xác thực về văn hóa tới mức đau đớn. Nói như vậy, tôi chỉ đơn giản muốn nêu ra rằng các nhà soạn nhạc cổ điển hiện đại, sau một thế kỷ cố gắng với những quyết tâm rất ấn tượng, đã thất bại trong việc tạo ra bất kỳ không gian văn hóa đáng kể nào cho nghệ thuật của họ, hoặc thuyết phục một nhúm thính giả tin rằng thứ nhạc mà họ sáng tác là tiếng nói thực sự của hiện đại. Những gì đã xảy ra thật hoàn toàn ngược lại: âm nhạc mới này đã khiến cả một thế hệ xa lánh, và nhiều người mê nhạc cổ điển ngày nay rất ngờ vực thứ nhạc này. (Tiện đây, tôi thật chẳng thích thú gì khi nói những điều này ra: một số nhạc phẩm nhạc hiện đại mà tôi yêu thích có thể được coi là thất bại trên bình diện văn hóa.) 


Vậy các dàn nhạc phải chơi những loại nhạc gì để thu hút các thính giả mới? Các giai điệu nhạc Pop soạn cho dàn nhạc chăng? Các buổi hòa nhạc có mời các nghệ sĩ nhạc rap cùng tham gia chăng? Một chương trình như vậy không đáp ứng được sự cần thiết của một nền âm nhạc cổ điển đương đại: loại hình âm nhạc vừa mới, song bằng cách nào đó vừa phải gắn liền với những lý tưởng và truyền thống của nghệ thuật âm nhạc châu Âu. Một cách tiếp cận khác là, thông qua hợp đồng sáng tác và biểu diễn, khuyến khích các nhà soạn nhạc nhớ lại “một thời vang bóng” và sáng tác theo phong cách gợi lại Puccini, Rachmaninov, hoặc Richard Strauss. Thực tế, có một số nhà soạn nhạc ngày nay đang làm chính điều này, nhưng những bài tập hoài niệm âm nhạc của họ không đáp ứng nhu cầu của một nền âm nhạc cổ điển mới với âm thanh mới. Cái khó là ở chỗ: một nhạc phẩm cổ điển đương đại thực sự thành công sẽ phải vừa thực sự mới, vừa đích thực cổ điển, lại vừa thực sự hấp dẫn thính giả. 


Những năm gần đây có một số dấu hiệu hy vọng, với các nhà soạn nhạc như John Adams [5], Arvo Pärt [6] và Osvaldo Golijov [7]. Họ viết nhạc theo hướng cố thoát ra khỏi cái ngõ cụt mà các nhà soạn nhạc cổ điển đương đại đã tự dồn mình vào. Nhưng con đường phía trước không rõ ràng: vẫn chưa có ai đạt được một bước đột phá lớn, và âm nhạc cổ điển đương đại vẫn bị bêu xấu là nghe không lọt tai. Tuy nhiên, bổn phận của các nhà các soạn nhạc là phải cố gắng giải quyết vấn đề hóc búa này – và bổn phận của những người biểu diễn là phải hỗ trợ những nỗ lực của các nhà soạn nhạc. Từ bỏ thách thức này có nghĩa là thừa nhận rằng âm nhạc cổ điển thực sự là một “nghệ thuật đã chết.” 


Những rắc rối với nhạc xưa


Những ai luôn đắm mình trong văn hóa của âm nhạc cổ điển có lẽ khó nhận thấy rằng các chương trình biểu diễn theo tiêu chuẩn xưa quả thực có vấn đề. Ấy vậy mà hầu như không có gì từ những sáng tác trong năm mươi năm qua được đưa vào các chương trình diễn tiêu chuẩn. Như vậy, âm nhạc cổ điển chính tắc ngày nay đã trở thành một dạng bảo tàng của các giá trị âm nhạc từ các thời đã qua. Và trong khi nền văn hóa bảo tàng này có thể thu hút một số người có xu hướng vọng cổ, việc một số đáng kể dân chúng thời nay không còn quan tâm nhiều tới quá khứ nữa là cả một vấn đề. Các giá trị âm nhạc đã thay đổi đáng kể trong thế kỷ qua. 


Ớ đây tôi không mắng nhiếc âm nhạc quần chúng, hay lên án rock and roll là “âm nhạc quỷ ám”. Ngược lại, tôi đã lớn lên trong sự tiếp thu rất nhiều âm nhạc quần chúng trong cuộc đời tôi, và tôi vẫn tiếp tục thích thứ nhạc này. Nhưng cái mà tôi lo ngại là sự thống trị của nhạc pop, mà theo tôi, đã có một ảnh hưởng sâu sắc đến cách người ta nghe nhạc cổ điển, trên thực tế là ảnh hưởng tới khả năng của họ để lắng nghe nó. Những người đã quen nghe âm nhạc quần chúng trong suốt cuộc đời họ (lại một lần nữa, một số đáng kể dân chúng) sẽ tự giả định âm nhạc phải vang lên như thế nào. Một người chỉ nghe chương trình ba phút Top 40 bài hát có thể sẽ thấy chương trình hoà nhạc không lời của dàn nhạc là thoái chí và dai dẳng. Một người sau khi “cai sữa” nhạc rock hoặc nhạc rap âm lượng lớn có thể thấy tứ tấu đàn dây là yếu ớt và èo uột. Và một người ngưỡng mộ giọng ca “tự nhiên” của Bob Dylan hay Tom Waits có thể cho Placido Domingo là nhân tạo và quá mệt mỏi. 


Tôi tin những phản ứng kiểu này là những thách thức lớn nhất đối mặt với thế giới nhạc cổ điển bởi vì chúng nhấn mạnh một sự đoạn tuyệt với các giá trị cốt lõi của chính âm nhạc. Làm sao mà “giải quyết được vấn đề” khi đàn violin không phải là một nhạc cụ có tiếng kêu đặc biệt to, hoặc khi octet của Schubert không có lời, hoặc giao hưởng số 9 của Mahler dài tới một tiếng rưỡi đồng hồ? Cuối cùng, âm nhạc cổ điển là những gì nó có, và sự tồn tại của nó phụ thuộc vào một bộ phận dân chúng chấp nhận nó và hồ hởi với nó theo cách của họ. 


Vài đề xuất khiêm tốn


Có những người cho rằng cần các có nhiều chương trình giáo dục âm nhạc hơn để dạy con em chúng ta trong nhà trường, tập trung vào nhạc cổ điển. Chắc chắn tôi không phản đối điều này, nhưng tôi lo rằng những nỗ lực như vậy thường tạo ra một vầng hào quang xung quanh âm nhạc cổ điển, kết quả là tiếp tục tách nó xa hơn ra khỏi cuộc sống (Nghệ thuật thơ đã chịu số phận hẩm hiu này). Mục tiêu của chúng ta phải là đưa âm nhạc cổ điển trở lại cuộc sống đời thường của những người dân bình thường. 


Các nhạc sĩ, các nhà giáo dục, những người giới thiệu các buổi hoà nhạc, và tất cả những ai tham gia trong việc thúc đẩy âm nhạc cổ điển cần có một cái nhìn nghiêm khắc vào các thông điệp văn hóa có thể phá hoại những nỗ lực của họ. Cần nhớ rằng việc phân chia văn hóa âm nhạc thành “cao” (“âm nhạc đỉnh cao”, “âm nhạc trí tuệ”) và “thấp” (“âm nhạc tầm thường”, “âm nhạc thấp kém”) – tách riêng nhạc cổ điển ra khỏi nhạc quần chúng – phần lớn là sáng chế của chính thế giới âm nhạc cổ điển. Loại tư duy này có một lịch sử lâu dài, nhưng chỉ trong thế kỷ XX, nó mới biến tướng thành một ý thức hệ giáo điều cứng nhắc của sự chia rẽ và loại trừ. 


Bây giờ chính là lúc âm nhạc cổ điển phải khắc phục được cái thứ tư duy cho rằng nó không chỉ đơn thuần khác mà còn đối đầu với các thứ nhạc khác, rằng âm nhạc cổ điển là âm nhạc duy nhất tồn tại “phi thời gian”, “phổ quát”, và “vĩ đại”. Tất nhiên chỉ bằng việc đó không đủ để giải quyết vấn đề làm sao cho nhiều người thưởng thức được opera của Wagner, hoặc ngay cả chịu ngồi nghe từ đầu chí cuối. Nhưng ít nhất, nó cũng đưa âm nhạc cổ điển quay về liên hệ với các giá trị của thế giới đương đại. Nếu ngày nay âm nhạc cổ điển thấy mình bị cô lập ở một phía – phía nhầm lẫn và sai trái – của một bức tường Berlin về văn hóa, thì đó là một bức tường mà chính nó đã xây dựng nên. Chúng ta phải phá hủy bức tường đó, nếu chúng ta muốn thuyết phục thế giới rằng nhạc cổ điển cần phải và thực sự có chỗ đứng trong thế giới đương đại. 
Tác giả bài viết:

Colin Eatock (sinh năm 1958) là nhà soạn nhạc, phê bình âm nhạc, nhà văn, biên tập và nhà giáo người Canada. Ông là cộng tác viên thường xuyên cho chuyên mục âm nhạc của tờ Globe and Mail và tờ Houston Chronicle của Toronto, và nhiều tờ báo khác tại Canada, Hoa Kỳ, và Anh. Ông mới xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình nhan đề “Mendelsshon và nước Anh thời nữ hoàng Victoria” (NXB Ashgate Press, năm 2009).

Eatock đã viết nhiều ca khúc, nhạc thính phòng, hợp xướng, và giao hưởng, được trình diễn và phát thanh tại Canada, Hoa Kỳ, và Anh, và được các hãng Furiant, Echiquier, và Toreador thu âm. Ông còn là hội viên Trung tâm Âm nhạc Canada, nơi lưu trữ hầu hết các tổng phổ của ông.

Eatock nhận học vị tiến sĩ âm nhạc học tại Đại học Toronto đồng thời là giảng viên tại đại học này. Ông còn là thạc sĩ về soạn nhạc (ĐH Toronto) và thạc sĩ phê bình âm nhạc (ĐH McMaster), và cử nhân âm nhạc (ĐH Western Ontario). Trước khi viết văn tự do, ông từng làm biên tập viên và người gây quỹ trong 10 năm tại ban quản lý công ty Opera Canada tại Toronto.

Nguyễn Đình Đăng dịch

Chú giải của người dịch:


* Dịch từ nguyên văn tiếng Anh, Colin Eatock,“What’s Wrong With Classical Music”( 2010).

[1] Nguyên văn: “It soothes the savage breast in some unique way”. Tác giả mượn câu đầu tiên trong vở kịch “Cô dâu chịu tang” (The mourning bride) của văn hào và thi sĩ Anh Wiliam Congreve (1670 – 1729): “Music has charms to soothe a savage breast,” (Âm nhạc có những quyến rũ xoa dịu được bầu vú hoang dã).

[2] Nguyên văn: “to shoot the messenger” có nghĩa là “bắn (chém) sứ giả”, ý nói tức giận người đưa tin xấu. Trong chiến tranh thời xưa, chỉ huy của phe này thường đưa thông điệp của mình cho sứ giả mang sang trao cho chỉ huy của phe đối nghịch. Không ít lần, vì không trút được giận lên đầu tác giả của bức thông điệp, tướng của phe đối nghịch đã ra lệnh chém đầu sứ giả.

[3] Tác giả chơi chữ “punch” (cú đấm, sức mạnh) khi so sánh nhạc giao hưởng với punch rock.

[4] Theo D. Throsby, “The music industry in the new millennium: Global and local perspectives” (Công nghệ âm nhạc trong thập kỷ mới: Những triển vọng toàn cầu và cục bộ) (UNESCO, Paris, 10/2002), thị trường băng đĩa âm nhạc trên toàn thế giới trong năm 2000 thu về khoảng 37 tỉ US$, trong đó Hoa Kỳ đứng đầu (14 tỉ US$), sau đó là Nhật Bản (hơn 6.5 tỉ US$), toàn châu Âu cộng lại được hơn 11 tỉ US$. Trong số đó doanh thu của nhạc cổ điển chỉ chiếm khoảng 4%. Hơn 80% thị trường âm nhạc thế giới nằm trong tay 5 công ty xuyên quốc gia là EMI, BMG, Warner Music Group, Sony Music Entertainment và Universal Poly/Gram.

Việc vi phạm tác quyền âm nhạc (music piracy) đã gây thiệt hại rất lớn cho doanh thu của công nghệ âm nhạc. Trung Quốc đứng đầu danh sách Top 10 các quốc gia “vi phạm tác quyền âm nhạc” (trong năm 2000) với doanh thu do bán băng đĩa lậu đạt 600 triệu US$, kế đến là Nga (240 triệu US$), và đội sổ là Hy Lạp (40 triệu US$).

[5] John Adams (sinh năm 1947) – nhà soạn nhạc Mỹ theo trào lưu tối thiểu, đoạt giải Pulitzer về âm nhạc năm 2003 nhờ bản hợp xướng tưởng niệm các nạn nhân của vụ khủng bố 11/9/2001. 

[6] Arvo Pärt (sinh năm 1935) – nhà soạn nhạc Estonia, một trong những nhà soạn nhạc thánh đương đại nổi tiếng, theo trào lưu tối thiểu. 

[7] Osvaldo Golijov (sinh năm 1960) – nhà soạn nhạc Argentina gốc Do Thái, đoạt giải Grammy năm 2007.

                                                                                                     Tạp chí Tia sáng - 03/5/2012)