Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2012

HOA VÀ ĐƯỜNG


1. HOA ĐƯỜNG TÙY BÚT



Blog PhamTon năm thứ ba, tuần thứ 3 tháng 2 năm 2012.

HOA ĐƯỜNG TÙY BÚT –

KIẾN VĂN, CẢM TƯỞNG I


Phạm Tôn
Sau khi đã đưa bài số 6 Chuyện một đêm một ngày lên blog tuần thứ 3 tháng 8, như đã hẹn từ nay chúng tôi sẽ lần lượt đưa nốt 10 bài còn lại trong số 11 bài văn cuối đời Phạm Quỳnh viết mùa hè năm 1945 tại biệt thư Hoa Đường.
Sau ngày 23/8/1945, Phạm Quỳnh bị bắt tại biệt thự Hoa Đường ở Huế, thì tất cả sách vở tài liệu liên quan đến chính trị và văn học đều bị lục xét và phần lớn bị tịch thu. May mắn là còn sót lại một quyển vở học trò trên bàn làm việc của ông, đặt ngang sẵn cây bút máy Waterman để chiều viết tiếp. Đó là tập Hoa Đường tùy bút – Kiến Văn, Cảm Tưởng I, với bài cuối cùng Cô Kiều và tôi viết còn dở dang.
Như vậy là sau gần 30 năm lăn lộn trên trường văn học (1917-1932) và chính trị (1932-1945), chắc chắn ông đã phải đối đầu với nhiều sự tình éo le, gây cấn, cho nên trong những trang viết cuối cùng này ta thấy những điều ông nói đến như Thế thái nhân tìnhVăn học và Chính trị, Muốn sống, Con người hiểm độc, Anh chàng khoác lác, Lão Hoa Đường, Thiếu Hoa Đường… đều gần như là những lời tâm sự ông rút từ ruột gan mình muốn thổ lộ, nhắn gửi với người đời sau. Đây là bản thảo đầu tiên ông viết chỉ để mình đọc, chưa phải để đưa đi in. Tên bản thảo có ghi rõ số I, tức ý ông sẽ còn viết nhiều tập như thế nữa. Chỉ đọc qua tên một số bài như trên, chúng ta đã thấy ngay đây là một tập tạp văn, kiểu tạp văn Lỗ Tấn, mà ta biết từ nay ông quyết định sẽ viết liên tiếp nhiều tập. Nhưng chẳng may, ngay tập I mỏng cũng chưa hoàn thành, vẻn vẹn chỉ có 47 trang giấy học trò, cho nên chưa thể đoán định được ông định hướng chủ yếu về đề tài gì. Sau khi ông mất khá lâu, nhân kỷ niệm 100 năm sinh, con gái ông là bà Phạm Thị Hoàn ở Paris đã công bố 10 bài vào năm 1992, trong phần II của tập sách kỷ niệm 100 năm ngày sinh Phạm Quỳnh (1892-1992)Tuyển tập và Di cảo. Loại ra một bài Chuyện một đêm một ngày mà bà cho chỉ là những trang nhật ký, ghi lại những sự việc cần nhớ, để sau này dùng, chứ hoàn toàn không có tính chất nghệ thuật gì. Sau này, em trai bà là ông Phạm Tuân đã cho in toàn văn bài Chuyện một đêm một ngày này trong tập Giải oan lập một đàng tràng do Tâm Nguyện phát hành, in lần thứ nhất tại Hoa Kỳ năm 2001. Bản Tuyển tập và Di cảo này in tại Pháp, tại nhà xuất bản An Tiêm, cả công nhân lẫn người sửa bài đều không phải là những người chuyên làm về văn học tiếng Việt, người duyệt lại là bà Phạm Thị Hoàn, lúc ấy tuổi cũng đã cao, cho nên có nhiều sai sót trong chữ nghĩa in sai, hoặc thiếu, hoặc thừa so với bản thảo Phạm Quỳnh viết chỉ để mình đọc. Chúng tôi may mắn có trong tay bản sao chụp toàn bộ 11 bài ấy, cho nên lần này công bố trên blog, chúng tôi cố gắng bám sát bản viết tay của Phạm Quỳnh mà không dùng những bài đã đăng trong Tuyển tập và Di cảo mong tránh được những sai sót đã mắc. Vì thế cũng xin báo để các bạn đã có sách Tuyển tập và Di cảo nên căn cứ vào các bài đăng trên blog của chúng tôi để rà soát lại bài có trong sách của mình.  Riêng bài số 11 Cô Kiều với tôi viết dở dang, chỉ có 3 trang, chúng tôi đăng toàn văn bằng chữ Phạm Quỳnh viết để bạn đọc trực tiếp đọc. Đó cũng là một cách tưởng nhớ người xưa.
P.T.

2. ĐƯỜNG 

(THỨ HAI, NGÀY 04 THÁNG SÁU NĂM 2012 - longbach blog)


Amazing Path

Hình ảnh về các con đường kì lạ, chẳng giống bất kì con đường nào khác. Nó không chỉ là cái đẹp, mà còn là sự sáng tạo của con người. Ảnh nhận được từ thư của K.V, chuyển sang PPT, nhờ FileDen lưu trữ hộ. Xem tại đây


(theo: http://longbachblog.blogspot.com/2012/06/amazing-path.html  )

3. HOA 


(THỨ BẢY, NGÀY 02 THÁNG SÁU NĂM 2012 - blog longbach)

Nghệ Thuật Kết Hoa

Sự phát triển lên đến đỉnh cao của nghệ thuật kết hoa Nhật Bản, Japan, cành cây, lá, cỏ, hoa tươi thường được sử dụng, làm trung tâm vẻ đẹp cho không gian thiền.
Có nguồn gốc từ nghi lễ dâng hoa cho Đức Phật, rồi phát triển thành một hình thức nghệ thuật đặc biệt từ thế kỷ 15, với nhiều phong cách và trường phái. Nghi thức dâng hoa trong Phật Giáo, trở thành một môn nghệ thuật đặc trưng của tôn giáo, cho dù nó vẫn tiếp tục giữ lại được tính tượng trưng và ý nghĩa triết học.
Các bức ảnh nhận được từ thư của K.V, ghép lại trong file PPT, chuyển sang SWF rồi gửi lên FileDen, xem trực tiếp tại đây


--------------------------------------------------
(Vĩnh Thuận sưu tầm từ Blog Bạch Long Giang http://longbachblog.blogspot.com  và Blog về cụ Phạm Quỳnh http://phamquynh.wordpress.com  - Ngọc Hà - 9/6/2012)


Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012

KÍN ĐÁO Á ĐÔNG



Tap chi Tia Sang - 10:00-06/06/2012 

Kín đáo học Á Đông

HOÀNG Hồng-Minh

Nghe xong bài đàn ngũ âm, ông Pháp Đàn nhích lại gần “dám hỏi Cụ Hinh, tên bài hát này là gì ạ?”.


- Là “Em xinh là xinh như cây lúa” ạ.


Ông Pháp Đàn càng rụt rè. Cái cổ của ông ngắn hẳn lại.


Hồi lâu, sau khi tự chiến thắng được sự rụt rè bình phương của mình, ông cất tiếng.


- “Cụ Hinh ạ, ‘em xinh’ thì tôi hiểu. Nhưng ‘xinh như cây lúa’, thì chịu, quả là khó quá ạ.”


- “Thế ông tưởng tôi hiểu nó đấy à?”


- “Chết, thế thì nó là cái gì ạ?”


- “Cái đó gọi chung là ‘kín đáo học Á Đông’, ông Pháp Đàn ạ.”

(Mỹ Đình - 9/6/2012 - Vĩnh Thuận sưu tầm theo:

VỀ MÔ HÌNH TRUNG QUỐC


Tap chi Tia Sang - 10:03-08/06/2012
Daron Acemoglu:
Mô hình Trung Quốc không bền vững
Theo Wiwo 27/05/2012

Theo Daron Acemoglu, cuộc cách mạng
Ả Rập vẫn chưa thành công vì chưa
xây dựng được một “thể chế tốt”
(nguồn: Indiana State University)














Theo Giáo sư Daron Acemoglu, ứng viên giải thưởng Nobel người Hoa Kỳ,  thì sự lạm dụng quyền lực của các chính khách tham nhũng là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến nghèo khổ. Những quốc gia thiếu một thể chế tốt về lâu dài nhất định sẽ thất bại.

WirtschaftsWoche (Tuần kinh tế)Thưa Giáo sư Acemoglu, cuộc cách mạng ở vùng Trung Cận Đông cách đây khoảng một năm đã làm dấy lên niềm hi vọng rằng tự do về chính trị sẽ đem lại  thịnh vượng về kinh tế ở khu vực này. Nhưng giờ đây chỉ còn là một sự vỡ mộng. Vậy các nước ở khu vực này đã mắc phải sai lầm gì? 



Acemoglu: Những biến động về chính trị và kinh tế diễn ra ở Trung Cận Đông thực chất là một bước ngoặt và về lâu dài nó sẽ làm thay đổi một cách bền vững bộ mặt của những nước trong khu vực đó. Nhưng hiện tại tình hình còn nhiều yếu tố bất ổn và vẫn chưa biết sẽ đi về đâu. Yếu tố then chốt quyết định cho phát triển kinh tế không phải là người dân được bầu cử tự do, mà là họ có thành công hay không trong việc xây dựng một thể chế tốt đẹp. 

Ý của giáo sư là?



Một thể chế tốt đẹp, ở đây tôi muốn đề cập tới cái gọi là “thể chế cởi mở” (Inclusive Institutions), là một thể chế giúp cho mọi người phát huy hết năng lực kinh tế tiềm tàng của mình để thúc đẩy sự thịnh vượng của quốc gia. Những vấn đề cơ bản ở đây là con người có quyền sở hữu chắc chắn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, mọi nhóm người trong xã hội đều có quyền tham gia về chính trị, và những hoạt động chính trị này gắn liền với các quy tắc tiến bộ. Các tiêu chuẩn xã hội và hệ thống giá trị cũng hết sức quan trọng, thí dụ mọi công dân phải thượng tôn pháp luật. Một thể chế cởi mở sẽ giúp quyền lực chính trị được phân bổ cân bằng để không một nhóm người nào có thể bóc lột nhóm người khác về chính trị hoặc kinh tế. 


Tại phần lớn các nước vùng Trung Cận Đông thường có một nhóm tinh hoa ít ỏi kiểm soát toàn bộ nguồn tài nguyên. Khả năng thành lập doanh nghiệp cũng dành riêng cho tầng lớp tinh hoa đó. Điều thách thức ở đây là phải thay đổi tận gốc cái cấu trúc này. 

Vậy cơ hội thành công của việc thay đổi cấu trúc chính trị này là như thế nào?




Sự giàu có về dầu mỏ trở thành một bất lợi của Libya

Không nên đánh giá quá cao vai trò của tài nguyên thiên nhiên. Đa số người dân Libya có cuộc sống rất nghèo khổ, mặc dù đất nước này có nguồn dầu mỏ phong phú với chất lượng rất cao. Chỉ có thể chế mới thực sự là yếu tố quyết định để biến nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào thành phúc hay là họa cho một quốc gia. Nếu nền chính trị, hành chính và tư pháp phục vụ sự duy trì quyền lực của những kẻ cầm quyền thì nguy cơ lớn là ở chỗ, bọn này sẽ vơ vét nguồn tài nguyên phong phú này cho bản thân mình. Đối với Libya thì sự giàu có về dầu mỏ lại là một điều bất lợi, khi đất nước này không thành công trong việc thay đổi cơ cấu nội tại của mình. Ngược lại một đất nước có nguồn tài nguyên phong phú và có một thể chế hoàn hảo, thí dụ như Na Uy hay Botswana thì nguồn tài nguyên phong phú là cái phúc với các quốc gia đó.
Xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử thì sẽ không dễ thành công. Khi những kẻ được coi là tầng lớp tinh hoa bị hất ra khỏi các vị trí của chúng, thì những nhà cầm quyền mới lại tiếp tục tìm cách khai thác cái cấu trúc đó vì lợi ích của mình. 


Xin giáo sư cho một số ví dụ?


Hãy xem số phận nhiều quốc gia ở phía Nam sa mạc  Sahara hay các nước ở Nam Á. Sau khi giành được độc lập từ các ông chủ thực dân thì nền độc lập đó lại rơi vào tay thế lực cầm quyền ở trong nước, và thế lực này cũng bóc lột, vơ vét tài nguyên của đất nước như những tên thực dân trước đó. Thậm chí ngay như Mỹ cũng từng lâm vào sự phát triển tương tự. Sau cuộc nội chiến chế độ nô lệ bị cấm, người da màu có quyền bầu cử. Nhưng tầng lớp tinh hoa cũ ở phía Nam vẫn khư khư bám lấy cái cấu trúc quyền lực cũ. Đó chính là nguyên nhân vì sao nền kinh tế ở các bang phía Nam của Mỹ hầu như không phát triển lên  được. 


Thưa giáo sư vậy yếu tố văn hóa có ý nghĩa như thế nào đối với phát triển?


Tôi hoàn toàn không cho rằng những khó khăn hiện nay ở khu vực Trung Cận Đông là do nền văn hóa Ả Rập gây ra.  Đúng là những quan niệm cực đoan về tôn giáo và sự phân mảnh quá lớn về dân tộc có thể gây khó khăn cho sự phát triển nền dân chủ và các tiêu chuẩn xã hội. Nhưng thường thì chất lượng của thể chế là do căn nguyên lịch sử. Hãy lấy nước Anh làm ví dụ. Thông qua tự do báo chí mọi công dân ở Anh đều có quyền tham gia một cách dân chủ vào việc kiểm soát tầng lớp tinh hoa của đất nước và điều đó được coi là nghiễm nhiên. Nhưng điều nghiễm nhiên này không phải từ trên trời rơi xuống mà là kết quả của cả một quá trình phát triển kéo dài tới 400 năm. 

Phải chăng điều đó có nghĩa là các quốc gia Trung Cận Đông cần có 400 năm để đạt được một thể chế có chất lượng như ở nước Anh hiện nay?



Nước Anh từng đi tiên phong trong việc phát triển thể chế cởi mở. Giờ đây các quốc gia Trung Đông có thể trải qua giai đoạn này nhanh hơn vì đã có những tấm gương trong lịch sử để noi theo. Nhưng con đường đó đầy chông gai và gắn liền với nhiều bất ổn. 


Những nước thuộc địa trước đây như Ấn Độ hay Nam Phi có lợi thế hay không?


Kinh nghiệm mà các nước thuộc địa trước đây đã trải qua rất khác nhau. Ấn Độ, Hoa Kỳ, Singapore và Hồng Kông được hưởng lợi từ quá khứ thuộc địa, nhưng nhiều quốc gia châu Phi ở phía Nam sa mạc Sahara và các nước ở Trung Mỹ thì lại bị nhiều thiệt hại. Sự khác nhau này là do chiến lược của chủ nghĩa thực dân, và chiến lược này còn tác động cả đến phong trào giành độc lập sau này. Một khi chế độ thuộc địa chủ yếu nhằm vơ vét, bóc lột nguồn tài nguyên thì thường diễn ra nạn cưỡng bức lao động cùng với sự đàn áp khốc liệt. Còn ở những nước mà người dân chính quốc kéo đến thuộc địa với số lượng đông đảo để làm ăn sinh sống hoặc coi thuộc địa là địa bàn hoạt động thương mại thì các thuộc địa này thường có điều kiện thuận lợi hơn hẳn. Và khi chấm dứt  chế độ thuộc địa thì các nước này có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát triển. 


Sự phát triển mạnh mẽ từ nhiều năm nay của Trung Quốc liên quan thế nào tới thể chế của họ? 


Trong quá trình vươn lên như chúng ta thấy, Trung Quốc có thể đạt được mức tăng trưởng cao trong nhiều thập niên mà không cần xây dựng một thể chế cởi mở. Nhưng mô hình này không bền vững. 


Sự giàu có ngày càng tăng ở Trung quốc có tác động tích cực tới thể chế hay không?


Giả thiết hiện đại hóa này chưa được lịch sử chứng minh. Trong 100 năm qua có nhiều quốc gia đạt được sự tăng trưởng cao nhưng thể chế của các quốc gia đó không thay đổi nhiều. Nước Nga đạt mức tăng trưởng cao từ năm 1930 đến 1950, nhưng vẫn giữ nguyên một thể chế với mô hình phát triển thiếu bền vững, đó là phát triển theo xu hướng tận thu, khai thác triệt để các tài nguyên. Ả Rập Saudi cũng là một mô hình không bền vững, nhưng giả dụ giá dầu mỏ sẽ tăng gấp đôi thì quốc gia này vẫn tiếp tục ngày một giàu có, và điều đó sẽ làm giảm áp lực cần phải cải cách ở nước này. 


Vậy thì, thưa giáo sư, điều gì sẽ thúc đẩy sự chuyển đổi?


Không có một câu trả lời chung cho vấn đề này. Các nước phải tự thúc đẩy quá trình phát triển của chính mình. Các nước khác chỉ có thể tham gia hỗ trợ mà thôi. 


Xuân Hoài dịch

(Mỹ Đình - 9/6/2012 - Vĩnh Thuận sưu tầm theo:

TOÁN HỌC VIỆT NAM (GS Hoàng Tụy)



Tap chi Tia Sang.com.vn --- 04:38-08/06/2012GS Hoàng Tụy:

“Việt Nam đã không đến nỗi vô danh về toán”

Thanh Xuân
Sáng 8/6 tại Viện Toán học Việt Nam, GS. Hoàng Tụy đã có bài trình bày có tựa đề Một số vấn đề phát triển toán học, trong đó tập trung vào ba vấn đề cơ bản về toán học Việt Nam: lịch sử phát triển; toán lý thuyết, toán ứng dụng, và ứng dụng toán; đánh giá chất lượng nghiên cứu.
Về lịch sử phát triển toán học Việt Nam, GS. Hoàng Tụy khẳng định nền toán học Việt Nam đã có những thành công nhất định trong điều kiện khách quan vô cùng khó khăn. Ông lấy năm 1956 là năm khởi điểm của nền toán học Việt Nam, với sự kiện nhà toán học Nguyễn Khánh Toàn hoàn thành một công trình nghiên cứu về hình học, được coi là công trình nghiên cứu toán học nghiêm túc đầu tiên. Tuy nhiên, trong thời gian này, đội ngũ các nhà toán học Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, hầu hết mới ở trình độ đào tạo 3 năm đại học, và rất ít người có điều kiện làm nghiên cứu.

Trong bối cảnh khó khăn ấy, sự hỗ trợ đào tạo của Liên Xô đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng một nền tảng cho đội ngũ các nhà toán học Việt Nam. Theo GS. Hoàng Tụy, lứa cán bộ nghiên cứu toán của Việt Nam đầu tiên được Liên Xô đào tạo về nước đã giúp Đại học Tổng hợp Hà Nội lúc đó có vị thế chuyên môn hàng đầu ở Đông Nam Á. Khoa Toán của trường đã bắt đầu có những hoạt động nghiên cứu mang dáng dấp hiện đại, như tổ chức các chuyên đề toán học và seminar cho cả sinh viên lẫn cán bộ giảng dạy, “tạo ra một không khí đi vào khoa học rất sôi nổi”. GS. Hoàng Tụy cho biết, năm 1963 một phóng viên báo Le Monde của Pháp đã bày tỏ ngạc nhiên về sự tích cực của các nhà toán học Việt Nam trong những hoạt động tìm hiểu, nghiên cứu về vận trụ học (operation research).

Về hợp tác quốc tế, toán học Việt Nam trong giai đoạn này không chỉ sớm có sự giao lưu với Liên Xô và các nước Đông Âu, mà còn có mối quan hệ gần gũi với các nhà toán học Pháp. Nhiều nhà toán học quốc tế có tên tuổi, như Alexander Grothendieck hay Stephen Smale, từng bày tỏ sự trân trọng nền toán học của Việt Nam. Những hoạt động tích cực trong nghiên cứu, phát triển của toán học Việt Nam cùng sự ghi nhận của những nhà toán học hàng đầu này đã cho thấy bất chấp chiến tranh và những khó khăn khách quan, nền toán học Việt Nam đã từng bước khẳng định được vị trí của mình. “Việt Nam đã không đến nỗi vô danh về toán”, GS. Hoàng Tụy khẳng định. Trong thực tế, việc lý thuyết tối ưu toàn cục của ông được công bố quốc tế năm 1964, tạo nền tảng để lý thuyết này liên tục phát triển đến tận ngày nay, đã góp phần quan trọng giúp khẳng định vị trí của toán học Việt Nam giữa cộng đồng toán học thế giới.

Sự phát triển của toán học Việt Nam, theo GS. Hoàng Tụy, đã có những thuận lợi nhất định do được sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo cấp cao nhất, đặc biệt là Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên, vẫn có những hạn chế từ một số cấp quản lý khiến việc sử dụng cán bộ và quản lý khoa học không phù hợp. Có tờ báo từng đưa tin ca ngợi “GS. Lê Văn Thiêm chăn bò rất có trách nhiệm”, GS. Hoàng Tụy kể lại, điển hình cho tư duy lệch lạc trong quản lý của một thời kỳ, áp đặt cán bộ khoa học vào những hoạt động không phù hợp với năng lực, sở trường chuyên môn. Việc đánh giá, bổ nhiệm các nhà toán học có khi rơi vào tay những người làm công tác cán bộ mới chỉ có trình độ học vấn cấp II, ông cho biết. Những hạn chế về quản lý hành chính đã gây cản trở không nhỏ tới sự phát triển của toán học Việt Nam, đặc biệt là trong hiệu quả ứng dụng thực tiễn, như lĩnh vực kinh tế. GS. Hoàng Tụy cho rằng thất bại của ngành toán kinh tế là do không giao quyền điều hành cho những người có năng lực và trình độ chuyên môn phù hợp.

Bên cạnh đó, mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế cũ đã không tạo ra động cơ, nhu cầu để các xí nghiệp hợp tác với các nhà khoa học. Vì vậy, sẽ là “bất công, vô lý nếu chỉ trách các nhà toán học không đi vào thực tế”, GS. Hoàng Tụy nhận định. Tuy nhiên, trái với ý kiến cho rằng toán ứng dụng ở Việt Nam không phát triển, ông khẳng định rằng các hoạt động nghiên cứu toán ứng dụng vẫn diễn ra song hành với nghiên cứu toán lý thuyết. Từ rất sớm, toán học Việt Nam đã hình thành những định hướng nghiên cứu cơ bản trực tiếp hoặc gián tiếp mang tính ứng dụng, như toán học tính toán, máy tính, xác suất thống kê, tối ưu, v.v. Nhiều cán bộ đã sớm được cử đi đào tạo về toán học máy tính và các lĩnh vực liên quan, như Phan Đình Diệu, ngay từ khi ngành học này mới phát triển trên thế giới.

Về cách đánh giá chất lượng nghiên cứu toán học của Việt Nam, GS. Hoàng Tụy nhìn nhận rằng không thể chỉ lệ thuộc vào những chỉ tiêu mang tính định lượng, ví dụ như số lượng công bố quốc tế và trích dẫn trên các tạp chí ISI. Ông chỉ ra rằng mỗi ngành khoa học có một đặc thù riêng. Bản thân trong toán học cũng chia ra nhiều ngành, và có ngành dễ công bố quốc tế hơn các ngành khác. Việc công bố quốc tế là khó hay dễ cũng tùy theo thời gian. Như thời của GS. Lê Văn Thiêm thì việc công bố quốc tế là khó khăn hơn rất nhiều so với hiện nay. Đồng thời, có những tạp chí của Liên Xô trước đây là rất tốt, nhưng qua thời gian trở nên kém chất lượng và ngày nay không được nằm trong danh sách các tạp chí ISI. Vì vậy, không thể chỉ nhìn vào số lượng công bố quốc tế trên các tạp chí ISI để đánh giá trình độ hay thành tựu của một nhà toán học. Thay vào đó, người ta phải xem xét kỹ cách đánh giá khách quan hơn trong nội bộ từng ngành khoa học, mỗi ngành thường có phân loại riêng về chất lượng tạp chí trong phân ngành của mình.

Tương tự như vậy, người ta càng không thể nào đếm số công bố hay trích dẫn trên các tạp chí ISI để đánh giá hay xếp hạng một nền toán học, và việc đặt ra chỉ tiêu để phấn đấu thăng hạng cho toán học Việt Nam căn cứ theo chỉ tiêu này là không hợp lý, GS. Hoàng Tụy nhìn nhận. Ông cho rằng nếu đánh giá chất lượng dựa trên số lượng bài công bố quốc tế thì đương nhiên những nước đông dân, ví dụ như Trung Quốc, sẽ xếp hạng vượt xa các nền toán học như Thụy Điển và Hungary, mặc dù “ai dám nói rằng nền toán học Thụy Điển và Hungary là kém?”

( Mỹ Đình - 9/6/2012 -  Vĩnh Thuận sưu tầm theo: 

Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

Hài cốt trong lòng núi Sài Sơn


Tia Sang.com.vn - 10:53-04/06/2012 

Những hài cốt trong lòng núi Sài Sơn: Nạn nhân của giặc Minh?

Trần Thị Kim Anh

Chùa Thầy ở chân núi Sài Sơn
Một số tư liệu cổ đang củng cố phỏng đoán những hài cốt trong lòng núi Sài Sơn (Hà Nội) chính là chứng tích của một cuộc “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn” của giặc Minh hồi thế kỷ XV.
 
Tại hang Thần trên đỉnh núi Phật Tích (Núi Thầy, Sài Sơn) có một bể xương người khá lớn. Dân địa phương truyền kể rằng đó là hài cốt quân binh của tướng Lữ Gia nhà Triệu (111 TCN). Sau khi bị Lộ Bác Đức đánh thua, Lữ Gia đưa quân lính trốn vào hang. Giặc phát hiện ra đã dùng đá lấp kín cửa hang. Không còn đường thoát, nghĩa quân cả ngàn người đều vùi thây nơi đây. Sau dân địa phương xây một chiếc bể vuông tựa vào vách hang rồi nhặt nhạnh hài cốt trong hang chứa vào đó, lập một bàn thờ nhỏ để hương khói.

Chuyện về bể xương từ lâu gần như đã bị quên lãng, nhưng gần đây vấn đề được xới lên bởi chuyến thám hiểm của một phóng viên trẻ xuống lòng hang. Theo phóng viên này, dưới lòng hang hiện còn rất nhiều xương chưa được thu nhặt, xen lẫn trong đó, có cả những đồng tiền thời Tống và những mảnh gốm vỡ. Nhiều ý kiến của giới khoa học được đưa ra nhưng tất cả đều chỉ dừng ở mức phỏng đoán chứ không có căn cứ chính xác vì chưa có nghiên cứu chính thức nào được tiến hành. GS.TS nhân chủng học Nguyễn Lân Cường cho rằng, có thể những hài cốt này là của quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc bị người Pháp hun khói đến chết khi trốn vào hang cố thủ. Bởi theo ông, nếu là xương của quân Lữ Gia thì trải qua hơn 2.000 năm, xương cốt đã tan thành đất từ lâu rồi. Nhiều người đề nghị nên tiến hành các phương pháp xác định niên đại nhưng ông Cường cho rằng, bể hài cốt này đã nhuốm màu truyền thuyết thì cứ nên để nguyên như thế, không cần nghiên cứu hay động vào đó?!*

Do tình cờ đọc được các bài viết trên mạng về vấn đề này, chợt liên hệ với một số tư liệu có được trong quá trình dịch các văn bản Hán Nôm nên gần đây tôi có đăng ý kiến của mình qua bài Những bộ hài cốt trong hang động núi Sài Sơn không phải của quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc. Trong bài viết, dựa vào ghi chép của Phạm Đình Hổ ở bài ký Du Phật Tích sơn của ông viết vào đầu thế kỷ XIX rằng: “Đêm, nói chuyện về núi Phật Tích, ông anh họ tôi kể, cụ ngoại tôi là quan Bảng nhãn có bà con gái, tức cô ngoại tôi, từ nhỏ đã mộ đạo Phật. …rồi xuất gia đi tu ở chùa Tiên Lữ. Cụ từng đi chơi núi Phật Tích, vào hang thần, hang tối mù, ngày cũng như đêm, … Ở một chỗ hõm, thấy xương người chồng chất, nhũ đá rủ xuống thành trăm thứ kỳ quái…” để phủ nhận ý kiến của GS Nguyễn Lân Cường cho rằng đây có thể là xương của quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc cố thủ trong hang, bị người Pháp hun khói mà chết. Sau đó, tôi dẫn thông tin về tội ác của giặc Minh vào đầu thế kỷ XV để tham khảo: Khi quân Minh xâm lược Đại Việt, nhiều nơi, dân làng bỏ trốn vào hang núi, bị quân Minh phát hiện, chúng đã tàn bạo đốt lửa ở miệng hang hun chết hàng ngàn người. Chuyện này từng xảy ra ở Ninh Bình, Thanh Hóa, khiến Nguyễn Trãi phải viết:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ


Sách Thanh hóa Vĩnh Lộc huyện chí viết: “Thời người Minh chiếm đóng, việc phu phen tạp dịch phiền hà nặng nề, mọi người không kham nổi, có người dẫn đường vào trốn trong động (núi Cô Sơn huyện Vĩnh Lộc). Sau này xã Hoàng Xá nhiều người tránh vào trong đó, bị người Minh truy bắt, phóng hoả rất lớn, người trốn trong động chẳng phân biệt trai gái già trẻ, đều bị thiêu chết hết”. Kết thúc bài viết, tôi cho rằng: Việc hang động ở Sài Sơn còn ám khói, lại tìm thấy ở đây những đồng tiền thời Tống và những mảnh gốm rất giống kiểu gốm sứ thời Trần cho thấy, có thể tại đây cũng từng xảy ra một vụ tương tự như ở Thanh Hóa, Ninh Bình vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, khi quân Minh xâm lược nước ta.

Tuy nhiên gần đây, trong khi đi tìm thông tin về một vị tướng thời Lê sơ, tôi hết sức vui mừng vì đã bắt gặp đoạn văn xác định tội ác của quân Minh ở động Phật Tích trong Đại Việt sử ký toàn thư. Sự kiện này xảy ra vào Năm Canh Tý [1420], được chép ở quyển X, thuộc kỷ nhà Lê như sau: “Năm Canh Tý (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 18), mùa hạ tháng tư, Lộ Văn Luật dấy binh ở Thạch Thất, Lý Bân đánh phá được. Lộ Văn Luật chạy sang Ai Lao, dân chúng thì trốn trong hang núi Phật tích và An sầm. Quân Minh dỡ nhà hun động, người trong động bị khói lửa hun đều chết hết, người nào ra hàng cũng bị giết cả, vợ con bị bắt làm nô tỳ”. Vậy là phỏng đoán trước đây của tôi càng thêm có cơ sở. Và lời dân cư địa phương lưu truyền rằng có tới hàng ngàn bộ xương là có thể tin được.

Theo Toàn thư thì vào năm 1417, vua Minh sai Phong Thành hầu Lý Bân giữ chức Tổng binh Chinh Di tướng quân sang thay Trương Phụ trấn giữ Giao Chỉ. Lộ Văn Luật nguyên người huyện Thạch Thất, khi quân Minh tiến hành xâm lược Đại Việt, ông ta đã đầu hàng và được giặc cho làm chỉ huy quân ở Nghệ An. Bấy giờ viên tri phủ Nghệ An là Phan Liêu do bị quan nhà Minh bức bách nên tức giận dẫn quân bắt giết hết quan quân nhà Minh được phái đến rồi đem quân vây thành Nghệ An. Lý Bân phải đem quân đến dẹp. Lộ Văn Luật được cử làm chỉ huy quân tiên phong, song ông ta đã bỏ trốn. Bân cho bắt mẹ già, gia thuộc và anh em của Luật để ép ông ta ra hàng. Lộ Văn Luật vì vậy trở về Thạch Thất dấy binh chống lại Lý Bân và đã xảy ra sự kiện trên.

Nếu ý kiến của tôi về những bộ xương trong hang động núi Phật Tích lại được chứng minh rõ thêm bằng các phương pháp xác định niên đại để đảm bảo tính khoa học thì thiết nghĩ sau đó, Sở Văn hóa Thể thao, du lịch Hà Nội nên cho sửa sang lại đôi chút khu vực bể xương và bệ thờ, đồng thời làm một tấm biển ghi rõ sự thật lịch sử về những nạn nhân chết oan uổng dưới tay quân xâm lược nhà Minh để khách tham quan được biết và xóa đi những lời truyền kể sai lầm trước đây.

—------------------------------------------------------------------

* http://vtc.vn/394-284459/phong-su-kham-pha/ts-nguyen-lan-cuong-khong-tin-kho-xuong-da-2100-tuoi.htm



(Vinh Thuan su tam tu Tap chi Tia Sang - 5 Jun 2012)

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012

Trở lại nụ cười Ba Sương


Hậu Giang gió nổi bời bời
Người ta một nắng, chị thời … Ba Sương
 Theo cha đi mở nông trường/
 Sáu mươi tóc vẫn còn vương mùi phèn
Giữa bùn lòng mở cánh sen
Thương bao phận khó mà quên phận mình
 Không gia cư chẳng gia đình.


Trở lại nụ cười Ba Sương
Tien Phong - 11/2/2012
TP - Nhiều tin vui lại đến với nữ Anh hùng Lao động Trần Ngọc Sương (Ba Sương), nguyên Giám đốc Nông trường Sông Hậu, cho bà lại có những nụ cười thanh thản, hồn hậu.
Bà Ba Sương những ngày trong vòng tố tụng, nhiều đau buồn lo lắng nhưng vẫn chế biến thực phẩm để kiếm sống
Bà Ba Sương những ngày trong vòng tố tụng, nhiều đau buồn lo lắng nhưng vẫn chế biến thực phẩm để kiếm sống.
Tối 9-2, tôi gặp bà sau khi bà nhận quyết định phục hồi sinh hoạt Đảng. Dáng đi cũng lộ niềm vui. Vẫn tất bật, lưng ong, vóc dáng nhỏ, nhanh nhẹn, khi bà ngẩng lên, khuôn mặt phúc hậu nhẹ nhõm nở một nụ cười. Thật khác thời gian dài vừa qua, bà trĩu nặng thảng thốt âu lo, như một nhà thơ đã viết ngoài hiên trát gọi, thân còm chị đi.
Hôm 19-1, Viện KSND TP Cần Thơ triển khai quyết định đình chỉ vụ án (ký ngày 17-1), bà đã cười thanh thản, nói “biết tin từ mấy hôm trước, tôi bỗng khỏe ra, không phải uống thuốc trị bệnh nữa”. Tối 9-2, bà thanh thản hơn nhiều. Ánh mắt vui tươi, cái cười khi nói chuyện thỉnh thoảng chúm chím làm cho bà trẻ lại.
Khi nhận quyết định khôi phục sinh hoạt Đảng, bà đã cảm ơn Đảng ủy khối Doanh nghiệp, Thành ủy Cần Thơ nhiệm kỳ mới. Bà ngừng lại, hỏi “tôi nhấn mạnh nhiệm kỳ mới, biết vì sao không?” Tôi gật đầu là biết.
Vì nhiệm kỳ cũ muốn bỏ tù bà. Đã hai phiên tòa xử bà 8 năm tù giam. Phiên sơ thẩm của TAND huyện Cờ Đỏ, từ ngày 11 đến 15-8-2009, và phiên phúc thẩm của TAND TP Cần Thơ ngày 19-11-2009. Những ngày dằng dặc ấy, về Cần Thơ, bà hầu như chỉ biết chia sẻ với một ít nhà báo chúng tôi.
Bởi nhiều người khi đó né tránh bà. Với tôi, mỗi lần bà đến, tôi mở toang cửa, khi tiễn cũng ra tận ngoài đường lớn, mong chia sẻ an ủi bà, dẫu biết rằng sức mình quá nhỏ bé, trước nỗi buồn lo quá lớn của bà.
Ngày diễn ra phiên tòa phúc thẩm. Khoảng 13 giờ 20 phút, tòa tạm nghỉ để nghị án và cho biết, 15 giờ sẽ tuyên án. Bà về nhà người em cách tòa án chừng cây số, vẫn không dám nghỉ mà phải suy tính làm sao để không bị bắt.
Từ lúc mở ra vụ án, bà sợ nhất là bị bắt vào tù nên luôn tìm cách né tránh và đã thành công, nhưng án phúc thẩm tuyên là có hiệu lực thi hành ngay, làm sao tránh được bị bắt? Luật sư Nguyễn Trường Thành đề xuất, khi tuyên án, bà giả ngất xỉu. Bà lắc đầu, mình là Anh hùng không gục ngã như thế được.
Bà trùm khăn kín mặt, đeo kính, để một người em chở bà chạy theo Quốc lộ 91 ngược mạn Trà Nóc, xuống phà sang sông Hậu và lên bờ tỉnh Đồng Tháp rồi kiếm xe chạy về thành phố Hồ Chí Minh. Bà không dám qua phà Cần Thơ đông người (lúc đó còn phà, chưa có cầu Cần Thơ) sợ bị phát hiện.
Chao ôi, hồi nào đi đâu bà cũng được long trọng đón tiếp, nhiều hoa và tiếng vỗ tay, nay phải bí mật bỏ chạy trước đồng chí, đồng đội của mình!
Sau này, tôi biết, bà một mình lủi thủi xuống chiếc phà cũ kỹ, người đã nhỏ còn phải cố thu mình để khuất lấp giữa nhiều người, vượt sông Hậu mênh mông. Chiếc phà cũ kỹ đi mãi rồi cũng qua, lên được bờ, bà nhìn quanh rất nhanh và bước đến một ông xe ôm luống tuổi, nhờ chở đến bến xe cách đó mấy chục cây số.
Từ sáng bà chưa ăn gì, chắc lúc ấy đói và sắc mặt nhợt nhạt lắm nên ông xe ôm luống tuổi giật mình, khi được nhờ đã vội mua cho bà ổ bánh mì và chai nước. Vừa ngồi sau xe ôm, bà vừa gặm ổ bánh mì.
Xe đang chạy thì điện thoại di động của bà đổ chuông, người em cho biết, tòa tuyên y án sơ thẩm nhưng không bắt ai, cho tất cả về nhà. Bà hỏi lại, có thật không bắt ai? Người em khẳng định lần nữa. Bà nói nhỏ với người chạy xe ôm, cho bà quay lại.
Lại xin lược vài mốc thời gian để hiểu thêm nỗi đau khổ đôi lúc đến tuyệt vọng của bà. Ngày 27-5-2010, TANDTC xem xét giám đốc thẩm tuyên hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm, trả hồ sơ để điều tra lại theo thủ tục chung.
Ba Sương, nguyên Phó Thủ tướng Đoàn Duy Thành (ngoài cùng bên trái) và luật sư Nguyễn Trường Thành, dịp Ngày phụ nữ Việt Nam 20-10-2011 Ảnh: Sáu Nghệ
Ba Sương, nguyên Phó Thủ tướng Đoàn Duy Thành (ngoài cùng bên trái) và luật sư Nguyễn Trường Thành, dịp Ngày phụ nữ Việt Nam 20-10-2011. Ảnh: Sáu Nghệ.
Ngày 21-2-2011, Cơ quan CSĐT Công an TP Cần Thơ có “Bản kết luận điều tra vụ án” tiếp tục đề nghị truy tố tội Lập quỹ trái phép với số tiền nhiều hơn. Ngày 12-8-2011, Ủy ban Trung ương MTTQVN có công văn kiến nghị “đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bà Trần Ngọc Sương về tội danh lập quỹ trái phép” để “xử lý hành chính và dân sự”.
Nhưng vẫn chưa được xem xét, nên ngày 26-8-2011, bà có đơn kính gửi lãnh đạo thành phố Cần Thơ “thà rằng chết trước khi bị đưa ra xét xử”.
Được chính thức đình chỉ vụ án, bà cười kể, Tết nhẹ cả người. Buổi nhận quyết định khôi phục sinh hoạt Đảng, có mặt Bí thư Đảng ủy Nông trường Sông Hậu Diệp Hữu Minh.
Bà hỏi thẳng ông Minh: “Hồi nào ông là Phó chủ tịch Công đoàn của Nông trường, có thấy tôi lập và điều hành quỹ không, hay là do Công đoàn Nông trường?”. Dĩ nhiên, “quỹ đen” tức là quỹ đời sống nên do Công đoàn xây dựng và quản lý.
Lúc đã đình chỉ vụ án, gần Tết có một tổ chức doanh nghiệp ngỏ ý muốn gặp bà, chúc Tết và giúp đỡ bà. Tôi nói với bà, tức khắc Ba Sương phản đối, bảo không tiếp đại diện của tổ chức đó. Bà giải thích, khi gặp hoạn nạn họ không một lời hỏi thăm mà lẽ ra nên có, thì nay không lý do gì để bà gặp họ, càng không muốn để họ giúp đỡ.
Hồn hậu, thẳng thắn, cương trực và chủ động trong mọi hoàn cảnh, nhiều năm qua, cả những khi khó khăn nhất, chưa bao giờ tôi nghe Ba Sương than thân trách phận, nặng lời xúc phạm người khác. Nên phát biểu của bà khi nhận quyết định khôi phục sinh hoạt Đảng là thực lòng “tôi không làm điều gì bất lợi cho Đảng”. Bà kể, những năm qua, có nhiều phóng viên báo đài trong và ngoài nước phỏng vấn nhưng bà hạn chế trả lời, sợ có lời nói sơ sẩy làm ảnh hưởng uy tín chung.
Một thoáng Ba Sương u buồn khi tôi hỏi, tại sao bà đã nghỉ hưu từ ngày 1-7-2008 mà quyết định còn ghi bà trở lại sinh hoạt “tại Đảng bộ Nông trường Sông Hậu”. Bà kể, trước đây bà đăng ký hộ khẩu tại căn nhà là trạm liên lạc của Nông trường Sông Hậu ở TP Hồ Chí Minh, nhưng cuối năm 2009, Giám đốc mới của Nông trường đã đuổi bà đi, từ đó bà ở đậu mỗi nơi một thời gian ngắn, không ai cho bà nhập hộ khẩu. Nên bà chưa có nơi để chuyển sinh hoạt Đảng khi nghỉ hưu. Căn nhà đuổi bà đi thì bỏ hoang đến nay.
Tôi nhớ đến việc chuyển nhà của bà Ba Sương hồi đó, mà một người bạn của tôi có mặt. Anh này ở một tạp chí nghiên cứu lý luận, biết bà khi bà đã lâm nạn, nhưng cũng như rất nhiều người khác dù mới biết vẫn sẵn sàng giúp đỡ bà, anh cùng vợ kiếm nhà trọ và chuyển đồ đạc cho bà. Anh kể, đồ đạc của bà có giá trị nhất là chiếc va li lớn đã cùng Ba Sương đi nhiều nước trên thế giới. Va li trống rỗng, nhận biết được đã qua nhiều nước vì có tem cảng hàng không dán chi chít, và giá trị cũng chỉ ở dấu vết tem dán ấy, dấu vết của một thời vang bóng.
Nhưng thời không vang bóng mấy năm qua, bà lại được nhiều người làm thơ đề tặng, có người chưa từng gặp. Một trong những bài hay, Về một người anh hùng của Đoàn Xuân Hòa ở Bộ NN-PTNT, làm tháng 12-2010 với lời đề “Kính tặng chị Ba Sương”.
Bài thơ có những câu: Hậu Giang gió nổi bời bời/ Người ta một nắng, chị thời … Ba Sương/ Theo cha đi mở nông trường/ Sáu mươi tóc vẫn còn vương mùi phèn/ Giữa bùn lòng mở cánh sen/ Thương bao phận khó mà quên phận mình/ Không gia cư chẳng gia đình.
Cuối năm 2011, bà kể với tôi, một đơn vị mời bà nói chuyện kinh nghiệm thương trường và trả 10 triệu đồng. “Coi bộ nói chuyện cũng sống được”, bà cười nhưng lập tức ngừng lại “nói vậy chứ tôi không sống bằng cách đó đâu, mà đang bận công việc khác”.
Bà tổ chức chế biến, kinh doanh thực phẩm. Tối 9-2, bà cho biết, việc tổ chức kinh doanh của bà đang khá. “Cũng phải lo chút vốn để dành khi già yếu, không chồng không con buồn tủi lắm”, giọng Ba Sương chùng xuống.
Sáng 10-2, bà điện thoại cho tôi báo tin, vừa mở được một mối kinh doanh lương thực có triển vọng. Tôi chúc bà thành công. Bà cười, muốn lo cho vài chị em khác nữa chứ cho riêng bản thân thì không khó gì. Tiếng cười của bà hồn hậu, lan trong nắng Xuân.
Cần Thơ ngày 10-2-2012.
Hậu Giang gió nổi bời bời/ Người ta một nắng, chị thời … Ba Sương/ Theo cha đi mở nông trường/ Sáu mươi tóc vẫn còn vương mùi phèn/ Giữa bùn lòng mở cánh sen/ Thương bao phận khó mà quên phận mình/ Không gia cư chẳng gia đình.
Sáu Nghệ