Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

CẢNH ĐẸP HOÀNG SU PHÌ


Tháng Tám đến rồi, nắng mùa thu đẹp rực rỡ, lại ngứa ngáy lên đường đi phượt.
Chớp được bài về Hoàng Su Phì, copy lại để thỉnh thoảng ngắm cho đỡ nhớ em gái H'Mông.



Thứ hai, 29/09/2008, 15:35 GMT+7


Những hình ảnh đẹp về ruộng lúa bậc thang - Hoàng Su Phì

Hoàng Su Phì - một nơi mà đến đây mọi người sẽ cảm thấy như đang lạc vào một thế giới khác, không ồn ào và khói bụi chỉ thấy bát ngát một màu xanh của rừng và những thửa ruộng bậc thang vàng rực trong mùa lúa chín. 
Photobucket - Video and Image Hosting
 Ảnh website NVHG stầm
Đến với Hoàng Su Phì, bạn sẽ được thỏa sức tận hưởng cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ,
thư giãn thoải mái trong bầu không khí trong lành với núi rừng trùng điệp và tiếng suối róc rách reo vui.
Photobucket - Video and Image Hosting
Photobucket - Video and Image Hosting
Ruộng lúa bậc thang mềm mại uốn lượn quanh núi
Photobucket - Video and Image Hosting
Trải dài mầu xanh non bao la của núi rừng Miền Tây - HG
Photobucket - Video and Image Hosting 
Những ngôi nhà tô điểm cho sự bình yên thư thái 

Photobucket - Video and Image Hosting
Photobucket - Video and Image Hosting
   Tháng 9 -10 mùa lúa chín
Photobucket - Video and Image Hosting
Từng thửa ruộng bậc thang rực cháy một mầu vàng 
Photobucket - Video and Image Hosting
  Photobucket - Video and Image Hosting
Photobucket - Video and Image Hosting 
Những ruộng bậc thang ở trên cung đường này là những bức tranh thiên nhiên tuyệt vời
Photobucket - Video and Image Hosting 
Thảm lúa

Photobucket - Video and Image Hosting

Photobucket - Video and Image Hosting 

Photobucket - Video and Image Hosting

Photobucket - Video and Image Hosting 
Thu về, lúa chín vàng khoác lên Hoàng Su Phì một chiếc hoàng bào lộng lẫy 
NVHG - stầm
(Vĩnh Thuận sưu tầm - 01/8/2012 - Ngọc Hà)

Thơ Ng Đức Tùng - THĂM TRUNG HOA



THĂM TRUNG HOA

http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2012/07/30/tham-trung-hoa/

NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Khi mọi chuyện xảy ra
Thì anh không ở đó
Khi anh tới đó
Mọi người đã đi rồi
Có kẻ về nhà
Có người biến mất 
Mây mang theo nước mắt
Bầu trời xanh trở lại
Ngồi trên xe lăn
Một lão già lẩy bẩy
Hạ bút ký tờ giấy
Nổ súng vào đám đông
Bảo vệ thành quả cách mạng
Từ chiều hôm chập choạng đến rạng đông
Trên các bức tường vôi trắng
Máu đã được lau xong
Chim hoàng oanh lại hót
Khi anh tới thăm
Líu lo trong bờ liễu
Trên quảng trường mênh mông
Những cặp tình nhân đi đi lại lại
Vì sao tôi nhắc mãi
Về những ngày đã qua
Vì những ngày đã qua
Ngày mai sẽ lặp lại
Và khi chúng lặp lại
Anh sẽ không ở đó
Và khi anh tới đó
Máu đã được lau xong
Bầu trời xanh trở lại
Mây trắng lại bay qua
Chỉ còn người bán hàng rong
Rao bán trảm mã trà

(Vĩnh Thuận sưu tầm - Ngọc Hà - 31/7/2012 - Nguồn: Blog Ng Trọng Tạo)

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

CHÙA KUTHODAW Ở MYANMAR


Chùa Kuthodaw – 'cuốn sách' lớn nhất thế giới

26.06.2012 15:27 
http://xzone.vn/Web/77/482/81169/Chua-Kuthodaw-%E2%80%93-cuon-sach-lon-nhat-the-gioi.html

Toàn bộ cuốn kinh Tam Tạng được khắc chữ, đổ vàng ròng lên phiến đá cẩm thạch.

Nhắc đến sách, chúng ta thường nghĩ đến những trang giấy trắng in chữ đen còn thơm mùi mực, hay hiện đại hơn là e-book, những cuốn sách điện tử rất nhiều trên internet. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng còn có một “cuốn sách” khổng lồ, độc đáo được làm từ…đá! Nó có tới 1.458 tờ giấy. Đó là chùa Kuthodaw ở Mandalay, Myanmar. 


Chùa Kuthodaw là một quần thể gồm những đền, tháp nhỏ bằng đá cẩm thạch trắng được gọi là kyauksa gu. Phía trong mỗi tháp có một tấm biển đá ghi chép lại kinh phật. Mỗi phiến đá cẩm thạch trắng cao 1,5 mét, rộng 1 mét. 


Ngôi chùa được xây dựng như một phần của hoàng cung Mandalay từ năm 1857. Vua Mindon Min, lo lắng trước sự xâm lăng của người Anh cả về lãnh thổ lẫn tôn giáo đã quyết định để lại một công trình hoàng gia để truyền bá Phật giáo: một bộ kinh Tam Tạng tiếng Pali khắc trên đá. 



Công việc ghi chép lại kinh Phật trên mặt đá hoàn toàn không đơn giản và phải mất tới ba ngày để một người thợ khắc kín hai mặt của một tấm biển. Sau khi khắc chữ lên bề mặt đá, các rãnh chữ được đổ khuôn vàng. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài và nhiều lần phục chế, nhiều chữ vàng đã không còn, chỉ còn lớp muội đen hay những vệt khắc đá. 



Tương truyền, dù đọc miệt mài 8 tiếng mỗi ngày, du khách cũng phải mất đến 450 ngày mới có thể đọc và hiểu toàn bộ cuốn sách. 

Quần thể Kuthodaw nhìn từ trên cao.

Lối vào chùa.



Hiền Trang (TH)

(Vĩnh Thuận sưu tầm -  30/7/2012 - Ngọc hà)
 

Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012

BÁT GỐM thời LÝ



Bát và người

Bài và ảnh: Lê Thiết Cương
Tạp chí Tia Sáng - 23/7/2012


Bát chiết yêu, TK 18 - 19

Ngồi ngắm mấy cái bát gốm Lý xinh xinh thấy người Việt mạnh, người Việt lớn là vì những thứ nhỏ như thế. Người Việt chỉ hay khi làm nhỏ. Qua cái bát gốm Lý cũng đủ thấy văn hóa Việt mạnh thế nào. Sau một nghìn năm bị đô hộ, bị đồng hóa mà vẫn không mất mình.


Năm 1991, lần đầu tiên được trải nghiệm cảm giác lạ khi đi mua đồ xưa. Một cửa hàng nhỏ trên đường Kim Mã, toàn đồ ít tiền, cọc cạch. Người bán không có nhiều đồ và đồ nhiều tiền mà người mua thì cũng thuộc loại thích đồ xưa nhưng ít tiền. Ít tiền nhưng hễ biết thì vẫn chơi được, vẫn có kiểu chơi của nó. Mua được mấy món linh tinh, gốm Lý, chẳng món nào lành, toàn đồ sứt vỡ. Lần đầu có khác, đi đâu cũng chỉ mau mau chóng chóng muốn về ngay để ngắm nghía vuốt ve mấy cái đĩa, cái bát mốc meo đó. Thế mà sướng, sướng vì tìm được một trò chơi mới, một niềm vui mới với những đồ vật xưa cũ… và tự nhiên thấy mình khác trước, đơn giản hơn là bỗng thấy trong lòng mình có thêm những cảm giác khác.


Trong mấy thứ mua được hôm đó, có một cái bát, không mẻ nhưng bị nứt, vết nứt nhìn kỹ mới thấy, như sợi tóc, gõ nhẹ vào thành bát, tiếng kêu đục, không trong nữa. Tiếng kêu cũng cũ. Nhưng nhìn bát chứ có nghe đâu mà cần. Cái bát có lớp men áo màu xanh hơi thiên vàng, quen gọi là xanh ngọc nước dưa. Lớp men trong đọng vào những nét lõm của họa tiết được khắc vạch khi xương đất chưa khô hẳn, ẩn hiện nông sâu, đậm nhạt, tan chảy, nhòe hoặc tụ lại ở chân bát hình giọt lệ. Họa tiết thường gặp là hoa cúc dây trong lòng bát. Cái đẹp của tạo dáng bát đời Lý là cái đẹp của tương phản, miệng bát rộng, rộng rãi, cởi mở, mở ra và thu lại đến vô cùng, chân bát thấp, nhỏ. Màu men và tạo hình dáng bát này có thể coi là điển hình của bát gốm Lý cũng có thể coi là tác phẩm design đầu tiên bằng gốm của người Việt. Chẳng cứ phải làm gì to tát, khẳng định mình (bằng nghệ thuật) qua cái bát sau một nghìn năm Bắc thuộc cũng là xong một việc. Nói vậy là bởi gốm Lý hay bị so sánh với gốm Tống. Vẻ đẹp của gốm Tống là chỉn chu, nuột nà, gọn gàng, sạch sẽ, mỏng manh, cân đối ngược lại với gốm Lý, Lý đẹp là do mộc mạc, thô vụng, không đều, không cái nào giống cái nào, màu men thì chỗ xanh chỗ vàng, nhiều tình cờ do ít nhiều của đất nước lửa, có lẽ vậy mà gốm Lý nặng tình, nhiều tình hơn lý. Gốm Lý nghiêng về mỹ thuật hơn mỹ nghệ, nhiều cảm hơn nghĩ.


Bát đời Lý, TK 10


Ngồi ngắm mấy cái bát gốm Lý xinh xinh thấy người Việt mạnh, người Việt lớn là vì những thứ nhỏ như thế. Người Việt chỉ hay khi làm nhỏ. Qua cái bát gốm Lý cũng đủ thấy văn hóa Việt mạnh thế nào. Sau một nghìn năm bị đô hộ, bị đồng hóa mà vẫn không mất mình. Nghệ thuật là làm ra mình, tìm ra mình. Qua một cái bát gốm vẫn thấy được đời sống tinh thần người Việt trong đó.


Một nghìn năm đã đi qua mấy cái bát này. Những cái bát đã đi qua bao gia đình, đi qua bao bữa cơm sáng trưa chiều tối. Ai đã vuốt ra cái bát này, ai vẽ, ai vào lò ra lò? Ai đã nung cái bát này? Tại sao lại bát ăn bát để, tại sao lại ăn ở đầy vơi như bát, tại sao lại tham bát bỏ mâm, nhà sạch bát sạch, ăn cháo đá bát? Tại sao chết thì lại gối đầu lên bát sẽ “ngủ” yên hơn?


Năm 1994, (tôi) vẽ một bức tranh khổ lớn, sơn dầu trên vải, chỉ vẽ mỗi cái bát, một cái bát gốm cổ và vài cái đũa. Bức này người ta in làm bìa cho cuốn sách của triển lãm lần đầu tiên (của tôi) ở ngoài Việt Nam (Triển lãm Con đường Tĩnh lặng – Hongkong & Singapore 1995). Một cái bát gốm tĩnh lặng hóa ra lại nói và nói được nhiều chuyện của cá nhân mình.

Bát cuối Trần, đầu Lê


Cách nung gốm của Lý là xếp bát thành từng chồng, giữa bát nọ với bát kia có một con kê để ngăn không bị dính men, cho nên lòng của bát Lý bao giờ cũng có vết con kê. Từ cuối Trần trở đi, kỹ thuật này bỏ hẳn, thay bằng kiểu ve lòng. Chân bát, đĩa của Lê được thiết kế cao hẳn lên để khi xếp chồng lên nhau, khoảng cách giữa chúng sẽ rộng ra, vừa không bị dính men vừa cho nhiệt vào được nhiều hơn, men không sống. Xuất phát từ kỹ thuật nhưng lại có hiệu quả nghệ thuật. Dáng bát đĩa chân cao rất độc đáo và tiêu biểu của gốm Lê. Trước và sau Lê không có dáng này, bát đĩa gốm của các nước cũng không có dáng chân cao như vậy.


Sang thời Nguyễn, dáng bát quay về với tinh thần Lý, miệng bát xòe rộng, chân bát nhỏ, ngắn, điểm khác biệt là có ngấn, thắt lại ở phần eo chia bát làm hai phần rõ rệt gọi là bát chiết yêu. Men áo là men búp dong, hơi xanh, làm bằng tro bếp pha nước vôi, vẽ lam dưới men.


Thời trước, cỗ quê một mâm gồm năm đĩa hai bát là dùng bát chiết yêu. Cỗ nhà giàu, hết bát này múc thêm bát khác, cỗ nhà nghèo chỉ một bát, dáng bát chiết yêu như vậy nên không chứa được nhiều thức ăn nhưng trông vẫn đầy đặn, no đủ, ít nhất thì cũng no mắt, đủ mắt.

Bát chân cao đời Lê, TK 17


Chuyện bát cũng là chuyện người, chuyện ăn uống cũng là chuyện người. Người Việt có nhiều loại thức ăn nước hơn thức ăn khô, canh, cháo, phở, bún, miến… nên bát dùng nhiều hơn đĩa, có nhiều dáng bát lạ, đẹp.


Học đã mới chơi được, nhưng chơi cũng là một cách để học, để hiểu, cho dù chỉ là chơi mấy cái bát xưa, cũng vẫn thấy được truyền thống, văn hóa, nghệ thuật, thấy được tâm tính của người Việt.

(Vĩnh Thuận sưu tầm - Ngọc Hà - 29/7/2012)

Nhạc sỹ Nhật bản TORU TAKEMITSU



Toru Takemitsu: Tìm thấy lý do tồn tại khi sống trong âm nhạc


Toru Takemitsu (1930 - 1996)
Âm nhạc kinh điển thế kỷ 20 không còn là độc quyền của người châu Âu nữa, các nhạc sỹ đến từ khắp các châu lục đã làm âm nhạc phong phú hơn lúc nào hết. Một trong số đó là Toru Takemitsu, người đã kết hợp một cách tài tình âm nhạc Đông –Tây để đánh dấu sự vươn lên của các nhạc sỹ châu Á.
Con đường tự học

Toru Takemitsu sinh ngày 8/10/1930 tại Tokyo Nhật Bản. Khi mới được một tháng tuổi, Takemitsu cùng mẹ sang Trung Quốc nơi người cha đang làm việc trong một công ty bảo hiểm. Cha của Takemitsu là một người yêu âm nhạc và Takemitsu luôn nhớ mãi hình ảnh cha mình hay ngồi hàng giờ nghe các bản nhạc phát ra từ chiếc radio cũng như những lúc ông thổi shakuhachi (một loại sáo trúc của Nhật).

Năm 1937, Takemitsu được cha mẹ gửi về Nhật để học nhưng chẳng bao lâu thì phải dừng lại do chiến tranh. Như mọi công dân Nhật khác, ông phải tham gia phục vụ trong quân đội của Nhật Hoàng và đây có thể coi là giai đoạn đen tối nhất trong cuộc đời ông. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Mỹ chiếm đóng Nhật Bản, Takemitsu phục vụ trong quân đội Mỹ, nhưng ông bị ốm liệt giường một thời gian dài. Trong lúc nằm viện, ông lao vào tìm hiểu âm nhạc phương Tây, đồng thời quyết định ngừng tiếp xúc với âm nhạc truyền thống Nhật Bản bởi ông nói nó gợi lại cho ông quá khứ kinh hoàng của cuộc chiến.

Cũng giống như nhiều nhạc sỹ lớn của thế kỷ 20 như Arnold Schoenberg, Alban Berg, Villa Lobos…, ông không theo học nhạc một cách chính quy mà chủ yếu vươn lên bằng con đường tự học. Người duy nhất mà ông theo học trong một thời gian ngắn là Yasuji Kiyose, người sáng lập ra chi nhánh của Hiệp hội quốc tế vì âm nhạc đương đại (International Society for Temporary music) tại Nhật Bản. Thực ra Yasuji Kiyose không dạy kỹ thuật sáng tác mà chủ yếu giúp Takemitsu bằng cách cho ông tự do tìm tòi khai thác bộ sưu tập bản nhạc cũng như đĩa nhạc đồ sộ của mình. Nhưng bất chấp việc không được học hành nhiều và chỉ biết đôi chút về âm nhạc phương Tây, Takemisu vẫn bắt đầu sáng tác một cách nghiêm túc vào năm 16 tuổi. “Tôi tìm thấy lý do tồn tại của mình khi sống trong âm nhạc. Sau chiến tranh, âm nhạc là điều duy nhất có ý nghĩa [đối với tôi].”

Takemitsu mất cha năm lên 7 tuổi nên gia đình gặp nhiều khó khăn. Ông luôn ao ước có một cây đàn piano cho riêng mình nhưng do gia đình quá nghèo, ông đã làm một bàn phím piano bằng bìa cứng để tập và mỗi khi nghe thấy âm thanh piano vang lên đâu đó trên đường, ông đều gõ cửa xin chủ nhà được chơi. Sau nhiều năm, Takemitsu mới đủ tiền thuê một cây piano cũ để tập và nó giúp ông rất nhiều trong việc tìm hiểu âm nhạc phương Tây. “Cây piano đó mang lại một không khí thật tuyệt vời trong căn phòng nhỏ của tôi. Tôi chơi rất nhiều tác phẩm của Debussy và Fauré nhưng không thật tốt. Bạn tôi, Toshi Ichiyanagi, thường sang nhà tôi chơi và cậu ấy chơi thật tuyệt. Nghe cậu ấy chơi các tác phẩm của Ravel, tôi không khỏi ghen tị. Cũng chính trên cây đàn này tôi đã sáng tác “Lento in Due Movimenti” (1950) và được một tạp chí âm nhạc nhận xét l�pre– music. Khi nó được Kyouyai biểu diễn, tôi mới nhận ra nó là tác phẩm quan trọng nhất mà tôi từng viết”. Tuy nhiên sau một thời gian ông không đủ tiền thuê đàn và phải từ bỏ việc học piano.
Ngay từ khi bắt đầu sáng tác, Takemitsu đã chịu ảnh hưởng của nhạc sỹ trường phái Ấn tượng Claude Debussy. Cách sử dụng màu sắc trong hòa âm và phối khí của Debussy khiến Takemitsu đặc biệt ngưỡng mộ. “Tôi hầu như tự học nhưng tôi coi Debussy là thầy của mình”. Và có một điểm chung giữa hai nhạc sỹ này, đó là họ thường lấy thiên nhiên làm chủ đề để diễn tả cảm xúc của mình. Trong âm nhạc của Takemitsu, ta có thể cảm nhận được cảnh đẹp cũng như màu sắc của đất nước Mặt trời mọc. “Tôi không biết tại sao, nó thật là kỳ lạ, tôi chỉ có thể sáng tác khi sống tại Nhật Bản. Mỗi lần ra nước ngoài, tôi đều mang theo giấy viết nhạc nhưng không thể sáng tác nổi.” Takemitsu đặc biệt ấn tượng với những khu vườn cổ của Nhật Bản và nó là chủ đề trong rất nhiều sáng tác của ông. Chẳng hạn như trong tác phẩm “Arc” cho piano và dàn nhạc, những âm thanh của piano diễn tả hình ảnh con người và dàn nhạc như một khu vườn rộng lớn đầy màu sắc.

Trở về với truyền thống 

Năm 1951, Takemisu tham gia Jikken Kōbō - nhóm các nhạc sỹ tiên phong của Nhật Bản. Nhóm này thường tổ chức các buổi hòa nhạc giới thiệu sáng tác của các nhạc sỹ đương đại phương Tây cho các hội viên nhằm thúc đẩy âm nhạc hiện đại tại Nhật Bản. Trong giai đoạn này, ông tiếp xúc với rất nhiều tác phẩm hiện đại phương Tây nhưng ấn tượng cũng như ảnh hưởng tới quan niệm sáng tác của ông hơn cả là nhạc sỹ người Mỹ John Cage. Sự quan tâm đặc biệt của Cage tới văn hóa Thiền đã làm Takemitsu nhận thức được tầm quan trọng của âm nhạc truyền thống Nhật Bản, ông muốn chắt lọc chúng trong các sáng tác sau này của mình. “Tôi phải thể hiện sự biết ơn chân thành tới Cage. Trong suốt một thời gian dài tôi muốn chối bỏ những gì liên quan tới đất nước tôi, nhưng khi gặp Cage, tôi mới nhận ra những giá trị truyền thống của đất nước mình.” Không những vậy sự quay trở lại âm nhạc truyền thống của ông càng mãnh liệt hơn khi ông tình cờ được xem một buổi biểu diễn kịch rối Bunraku. “Chính âm thanh, âm sắc của cây Shamisen, loại đàn cần dài dùng trong Bunraku, đã làm tôi lần đầu tiên thấy được vẻ đẹp tuyệt vời của âm nhạc truyền thống Nhật Bản. Tôi đã thực sự rung động và tự hỏi mình tại sao trước đây mình chưa bao giờ chú ý đến nó”. Từ đó, ông quyết tâm nghiên cứu tất cả các thể loại âm nhạc truyền thống của Nhật Bản.

Cuối những năm 1950 may mắn đến với Takemitsu khi nhạc sỹ Stravinsky lưu diễn tại Nhật Bản. Ông đã mời Takemitsu ăn trưa và có những lời nhận xét tốt đẹp về tác phẩm “Requiem for string orchestra” của Takemitsu. Ngay sau khi Stravinsky về Mỹ, Takemitsu nhận được đề nghị sáng tác của Tổ chức Âm nhạc Koussevitzky1 và ông đã sáng tác “Dorian Horizon”, được Dàn nhạc giao hưởng San Francisco công diễn lần đầu dưới đũa chỉ huy của Aaron Copland.

Đầu những năm 1960, Takemitsu bắt đầu sử dụng nhạc cụ dân tộc trong các sáng tác của mình và thậm chí có tập chơi biwa (một loại đàn lute). Năm 1967, ông nhận được yêu cầu sáng tác từ dàn nhạc danh tiếng New York Philharmonic Orchestra nhân dịp 125 năm thành lập dàn nhạc. Takemitsu viết “November Steps” cho biwa, shakuhachi cùng dàn nhạc và tác phẩm dài khoảng 19 phút này được chính người đồng hương của ông, nhạc trưởng nổi tiếng Seiji Ozawa chỉ huy biểu diễn lần đầu. Tiếp đó là “Autumn Garden” cho dàn nhạc cung đình với những giai điệu cuốn hút của hichiriki (sáo sậy). Tác phẩm này được coi là tác phẩm mang đậm tính Á Đông nhất của Takemitsu, đánh dấu phong cách sáng tác giai đoạn sau này của ông.

Đầu thập niên 70, Takemitsu đã trở một trong những nhạc sỹ đương đại hàng đầu thế giới lúc bấy giờ, các sáng tác của ông được những dàn nhạc cũng như soloist nổi tiếng biểu diễn trên khắp thế giới. Năm 1970, trong liên hoan âm nhạc tổ chức tại Osaka, lần đầu tiên ông được gặp trực tiếp các đồng nghiệp đến từ phương Tây như Karlheinz Stockhausen, Lukas Foss, Peter Sculthorpe… Cũng trong năm đó ông nhận được yêu cầu sáng tác của Zurich Collegium Musicum. Và tác phẩm “Eucalyptus I” của ông được biểu diễn lần đầu bởi một dàn nghệ sỹ danh tiếng: Aurèle Nicolet, Heinz Holliger, Ursula Holliger. Nhạc trưởng nổi tiếng Seiji Ozawa thổ lộ: “Tôi rất tự hào về bạn tôi, Toru Takemitsu. Ông ấy là nhạc sỹ Nhật Bản đầu tiên sáng tác cho công chúng thế giới và danh tiếng của ông đã được quốc tế công nhận”.

Takemitsu sáng tác khá nhiều các tác phẩm cho dàn nhạc và chúng đều là những tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của ông: “Requiem for String Orchestra” (1957), “Twill by Twilight” (1988) tưởng nhớ nhà soạn nhạc người Mỹ Morton Feldman, “A Way A Lone II” (1981), “Tree Line for chamber orchestra” (1988), “Visions” (1990), “How slow the Wind” (1991)…

Concerto cũng là thể loại mà Takemitsu yêu thích và ông viết khá nhiều tác phẩm ở thể loại này. Các concerto của Takemitsu không quá đề cao vai trò của soloist (đây cũng là một nét thường thấy ở các nhạc sỹ thế kỷ 20) cho nên ông ít khi dùng thuật ngữ concerto đặt tên cho chúng: “Asterism” cho piano và dàn nhạc (1967), “I Hear the Water Dreaming” cho flute và dàn nhạc (1987), “Far Calls. Coming Far!” cho violin (1980), “Toward the Sea” cho guitar và flute (1981), “A String Around Autumn” cho viola đề tặng Nabuco Imai (1989), Fantasma/Cantos cho clarinet (1991)…

Giống như nhiều nhạc sỹ hiện đại khác, Takemitsu sáng tác khá nhiều nhạc nền cho phim. Trong 40 năm, ông đã viết nhạc nền cho hơn 100 bộ phim và đạt được nhiều giải thưởng: Los Angeles Film Critics Award năm 1987 cho phim “Ran” và Film Awards của Japanese Academy cho các phim “Rikyu”, “Sharaku”, “Ran”. Takemitsu nói về việc viết nhạc cho phim: “Tất cả phụ thuôc vào nội dung của phim, tôi cố gắng tập trung tối đa vào nội dung của phim để hiểu ý đồ của đạo diễn. Cuối cùng là thể hiện cảm xúc của đạo diễn bằng âm nhạc của mình…”

Cuối đời, Takemitsu dự định cộng tác với nhà văn Barry Gifford và đạo diễn Daniel Schmid để viết một vở opera theo yêu cầu từ nhà hát opera ở Lyons nhưng không thành. Takemitsu ra đi vĩnh viễn vào ngày 20/12/1996 vì viêm phổi. Ngày nay, ông luôn được nhắc tới như là nhạc sỹ thành công nhất trong việc kết hợp âm nhạc Đông - Tây và là người mở ra con đường mới cho các nhạc sỹ châu Á tiếp bước. 


Khi nhắc tới những nhạc sỹ mà ông chịu ảnh hưởng, Takemitsu còn nhắc tới nhạc sỹ người Pháp Olivier Messiaen (1908-1992).

Ngay từ khi mới bắt đầu sáng tác, Temitsu đã chịu ảnh hưởng của Messiaen qua các tác phẩm piano mà ông tập: cách sử dụng các điệu thức, sự tinh tế trong khai thác âm sắc của nhạc cụ cũng như sử dụng tiết tấu một cách linh hoạt.

Takemitsu đã có cuộc gặp không thể nào quên với Messiaen tại New York vào năm 1975, khi ông được nghe Messiaen chơi bản tứ tấu nổi tiếng “Quartet for the End of Time” trên piano mà ông tả lại là như được nghe cả dàn nhạc biểu diễn. Sau đó, Takemitsu đã sáng tác “Quatrain”, cũng sử dụng các nhạc cụ giống Messiaen là cello, violin, clarinet, piano nhưng thêm phần đệm của dàn nhạc. Trong tác phẩm này, ông còn sử dụng khá nhiều nét giai điệu và thủ pháp phối khí của Messiaen.

Trả lời phỏng vấn qua điện thoại khi nghe tin Messiaen qua đời vào năm 1992, ông đã thốt lên rằng:  “Sự ra đi của ông ấy sẽ khiến nền âm nhạc đương đại lâm vào khủng hoảng!” Sau đó, ông còn bày tỏ sự mất mát của cá nhân trước cái chết của Messiaen: “Thực sự ông ấy là người thầy tinh thần của tôi… Trong số nhiều điều tôi học được từ âm nhạc của ông ấy, thì quan niệm và trải nghiệm về màu sắc cũng như cấu trúc thời gian là những điều không thể quên được.”
   
Đỗ Minh tổng hợp
Tạp chí Tia sáng - 20/7/2012--------------------------
1 Là một người hết lòng ủng hộ âm nhạc mới, nhà soạn nhạc người Nga gốc Do Thái Serge Koussevitzky (1874-1951) đã thành lập Tổ chức Âm nhạc Koussevitzky vào năm 1942 với mục đích chính là hỗ trợ các nhà soạn nhạc bằng cách đặt họ viết những sáng tác mới và tài trợ cho việc tổ chức biểu diễn những sáng tác đó.

----------------------------------------------------
Vĩnh Thuận sưu tầm - 29/7/2012

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2012

BÍ MẬT TUỔI GIÀ


Thứ năm, ngày 05 tháng bảy năm 2012

http://longbachblog.blogspot.com/2012/07/bi-mat-tuoi-gia.html#more

Bí mật tuổi già

Đã có sinh thì phải có tử. Nhưng trước khi đến chữ tử, còn có chữ già. Nghe cái chữ này, ai cũng ngán. Cái tuổi già chết tiệt. Vài bức ảnh vui, cùng những lời khuyên. Ai thích thì dùng.

Gởi ai đã và sắp đến tuổi già.
Bí Quyết của Tuổi Già
Trước tuổi trung niên- Đừng sợ hãi !
Sau tuổi trung niên - Đừng tiếc nuối !
Hãy tận hưởng cuộc đời lúc nào có thể



Đừng đợi đến khi chân hết lết nổi, rồi mới tiếc nuối.
Khi nào thể lực còn cho phép, hãy đến thăm những nơi mình thích.

Khi có cơ hội, hãy họp mặt với các Ông, Bà bạn già.



 
Họp mặt không chỉ để ăn uống; mà để tận dụng khoảng thời-gian-chẳng-còn-lại-bao-nhiêu.

 
Tiền gởi trong Ngân hàng chưa hẳn là của bạn. Khi có dịp cần tiêu, thì cứ tiêu, & hãy đối xử tốt với chính mình vì mình đang mỗi ngày một già đi.




Thích ăn gì, cứ ăn! Điều quan trọng là bạn cảm thấy hạnh phúc.
Thực phẩm tốt cho sức khỏe - ăn thường xuyên và nhiều- nhưng không hẳn chỉ ăn có thế.
Thực phẩm không tốt cho sức khỏe - thỉnh thỏang ăn một chút - không nhất thiết phải tuyệt đối kiêng những thực phẩm này.
Hãy chữa bệnh bằng sự lạc quan. Dù bạn giàu hay nghèo.
 
Mọi người đều không tránh khỏi Sinh, Lão, Bệnh, Tử 





Không có ngoại lệ, đời là thế.
Đừng sợ hãi hay ưu tư khi bạn trở bệnh .
Hãy sắp xếp trước mọi việc và sẵn sàng ra đi không nuối tiếc.
Hãy để các bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho mình, để Thượng Đế chăm sóc cuộc đời và yêu thương mình, nhưng chính mình phải làm chủ tâm trạng mình.
Nếu sự lo âu có thể chữa khỏi bệnh cho bạn, thì bạn cứ lo âu đi!
Nếu sự lo âu có thể giúp bạn sống lâu, thì bạn cứ lo âu đi!
Nếu lo âu có thể đem đổi lấy hạnh phúc, thì bạn cứ lo âu đi!
Con cái sẽ tự gây dựng nên gia sản của chúng.
 


Hãy lo gìn giữ Bốn Báu Vật của mình
Thân thể mình - cần chú ý hơn đến sức khỏe, chỉ mình biết sức mình hơn ai hết.

 
 
Quỹ hưu trí - tiền do bạn làm ra, nên giữ cho chính mình là tốt nhất
Người bạn đời - hãy trân quý từng giây phút sống bên nửa-kia-của-mình; rồi một trong hai nửa sẽ ra đi trước.

PERFECT LOVE TÌNH YÊU LÝ TƯỞNG
Các bạn già - hãy nắm lấy mọi cơ hội để gặp nhau. Cơ hội sẽ hiếm hoi dần với thời gian.
WITH FRIENDS, EVERYDAY YOU MUST LAUGH, DANCE & BE HAPPY !!!
CÙNG BẠN BÈ, MỖI NGÀY TA HÃY CƯỜI VANG, NHẢY NHÓT VÀ VUI VẺ VỚI NHAU !!!