Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2012

TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM GIẢI THOÁT QUỐC GIA


http://quechoa.vn/2012/09/21/tu-nhan-luong-tam-giai-thoat-quoc-gia/#more-26793


Hiệu Minh
Tuần qua, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Kinh tế Đức Philipp Roesler gốc Việt thăm Hà Nội, bàn chuyện làm ăn và đòi phía chủ nhà tha 5 tù nhân chính trị. Trong lúc ấy, bà Aung San Suu Kyi, cựu tù nhân lương tâm của Myanmar, đang làm thượng khách của nước Mỹ. Một bên khuyên thả tù, một bên, từng là tù nhân, đang tìm lối thoát cho đất nước khỏi đói nghèo, tụt hậu.
 Năm tỷ đô la và năm tù nhân lương tâm
Khi tiếp Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Kinh tế Đức, Philipp Roesler, Bộ trưởng BNG Phạm Bình Minh, đã khẳng định “Đức là một trong những đối tác hàng đầu của Việt Nam tại Liên hiệp châu Âu (EU), với tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao. Kim ngạch thương mại hai chiều năm 2011 đạt gần 5,6 tỉ USD, tăng 33% so với năm 2010.”
Cách đó hai năm cũng vào dịp này (10-2011), bà Angela Merkel, Thủ tướng Đức, đã thăm Hà Nội để bàn về hiệp định mậu dịch tự do với Liên hiệp Âu châu và Đức, nền kinh tế lớn nhất EU, cũng ủng hộ thỏa thuận này.
Đọc hai mẩu tin nhỏ cũng biết ông Roesler đến Hà Nội lấy kinh tế làm trọng.
Ông là người Đức nhưng có phần máu Việt. Roesler sinh năm 1973 tại Khánh Hòa và được một gia đình Đức nhận làm con nuôi khi mới chín tháng tuổi. Xuất thân là trẻ mồ côi, không biết cha mẹ là ai, sang Đức hơn ba chục năm, Roesler đã lên tới chức Phó Thủ tướng Đức từ tháng 5-2011. Có lẽ ông là người gốc Việt thành công nhất trong những người mình ở hải ngoại.
Khi bàn về công chuyện thì Roesler là người Đức vì quyền lợi Đức. Khi bia bọt, có thể Roesler kể về vùng quê xa tít mù khơi, cốt gây thiện cảm với chủ nhà và giúp ký hợp đồng dễ hơn.
Đến thăm Đại học Kinh tế Quốc dân, ông nhắc “Với những người không được tự do để chọn cho mình cách suy nghĩ và hành động độc lập, thì sẽ không có kinh doanh, và thiếu tự do kinh tế cũng sẽ không có tự do xã hội.”
Hoặc “Một đứa trẻ mồ côi thời chiến tại Việt Nam được nhận làm con nuôi mà có cơ hội vươn lên trong một xã hội dân chủ như vậy, và gánh vác trách nhiệm lớn thì đó là bằng chứng nền dân chủ có thể tạo ra sức mạnh như thế nào.”
Nghe nói trong túi Roesler có danh sách 5 tù nhân và yêu cầu Việt Nam thả tự do. Phóng viên Hoàng Khương của báo Tuổi Trẻ vừa bị kết án 4 năm tù cũng được sự quan tâm đặc biệt của chính phủ Đức.
Kinh tế, nhân quyền, tự do, dân chủ và đồng minh, hợp tác luôn là câu nói cửa miệng của các chính khách phương Tây. Roesler không phải là ngoại lệ . Joseph Cao, người Mỹ gốc Việt, nguyên nghị viên QH Mỹ, đến thăm Hà Nội cũng hành xử không khác mấy.
Họ đều biết là Việt Nam không nghe. Nhưng mưa dầm thấm lâu. Biết đâu có ngày các vị lãnh đạo nhà mình đổi ý.
Roesler đưa lên bàn cân, một bên là 5 người tù nhân lương tâm, bên kia là hợp tác kinh tế 5 tỷ đô la giữa hai quốc gia. Sau chuyến thăm, nếu thuận buồm xuôi gió, thì có thể số tiền kia tăng lên gấp đôi, gấp ba, vì nước Đức coi Việt Nam là thị trường tiềm năng.
Trong cuộc nói chuyện với sinh viên, Roesler nhắc đến vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế, cũng như nói về sở hữu cá nhân.
Ông còn nhấn mạnh, điều kiện cho đầu tư là chữ tín của hợp đồng và niềm tin của đối tác với hợp đồng. Trong làm ăn, dân Việt ta ít được tín nhiệm trong việc giữ lời hứa.
Trong bối cảnh chiến lược dựa vào quả đấm thép “doanh nghiệp nhà nước” bị thất bại hoàn toàn thì câu nhắc nhở “sở hữu cá nhân” so với “sở hữu toàn dân”, giữ chữ tín, từ miệng một chàng trai trẻ mang dòng máu Việt không phải không có lý.
Đưa quốc gia vượt ra khỏi mối bùng nhùng, đôi lúc hãy bắt đầu bằng xây dựng chữ tín. Tín với bạn, tín với đối tác, tín với dân, tín với lời thề trước Đảng CS của ông Carl Marx, đồng hương với Roesler.
Tha tù nhân lương tâm – bước đi khôn ngoan
Ở tầm quốc tế, chữ tín đôi khi bắt đầu bằng những việc đơn giản. Tha tù nhân chính trị để cải thiện hình ảnh quốc gia cũng là một bước đi quan trọng.
Còn nhớ, cuối năm 2010 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi gặp Tổng thống Tổng thống Thein Sein đã khuyên
Bà Suu Kyi nhận Huân chương tại Hoa Kỳ. Ảnh: Reuters
Myanmar mở cửa với thế giới bên ngoài vì nhìn gương Việt Nam.
Phần khác, các cuộc cách mạng mầu Ả Rập và Đông Âu đã làm các tướng tham lam bên xứ Phật phải hoa mắt, ù tai. Thay đổi hay là chết, họ nhìn ra ánh sáng cuối đường hầm.
Giữ chữ tín với người đồng nhiệm Việt Nam, cựu tướng quân Thein Sein đã khởi động tiến trình cải cách dân chủ, thả bà Aung San Suu Kyi và bầu cử tự do, công nhận sự hợp hiến của phe đối lập. Hàng ngàn tù nhân chính trị đã được thả.
Mới đây, ông còn thay tới 16 bộ trưởng, trong đó có bộ trưởng Thông tin. Không kiểm soát báo chí và cho phép báo tư nhân ra đời. Quyền lực thứ tư sẽ giúp cho xã hội minh bạch và trong sạch hơn.
Hiện nay phương Tây ồ ạt đổ vào Yangon. Máy bay lúc nào cũng chật cứng thương gia. Tôi thăm Yangon hồi tháng 7 và đoàn công tác đã tìm ra vài địa điểm để thuê văn phòng. Nhưng giá cả hàng ngày lên vù vù, khó mà theo kịp, không cẩn thận sẽ không thuê được nữa. Ngày tôi ở Yangon, Hoa Kỳ tuyên bố bỏ hạn chế các công ty Mỹ vào làm ăn.
Tháng trước Aung San Suu Kyi thăm khắp châu Âu và được chào đón nồng nhiệt. Mấy hôm nay, cựu tù nhân lương tâm, khôi nguyên Nobel hòa bình, đang thăm Mỹ 18 ngày.
Ngoài việc nhận Huy chương Vàng Quốc hội Mỹ, gặp Hillary Clinton, và các nhà lập pháp, Obama tiếp tại Nhà Trắng, rồi Tổng Thư ký UN chào đón, với lịch thăm thú dầy đặc, bà Aung San Suu Kyi được Tổng thống Thein Sein, người từng giam giữ bà hàng chục năm, giao nhiệm vụ nặng nề là đàm phán với Mỹ để nới lỏng các biện pháp trừng phạt kinh tế.
Tin giờ chót cho biết, phía Mỹ đã bỏ lệnh trừng phạt cá nhân Tổng thống Thein Sein và chủ tịch Quốc hội Myanmar.
Bà nói rất rõ với phía Mỹ, cải cách chính trị tại Myanmar không thể phụ thuộc vào cấm vận của bất kỳ ai, mà phải dựa vào nội lực của chính quốc gia ấy.
Dùng tù nhân lương tâm để giải thoát quốc gia trên thế giới đã từng xảy ra và có những ví dụ về hòa giải tuyệt vời.
Obama gặp Suu Kyi. Ảnh: AP
Nam Phi có Nelson Mandela, ngồi sau song sắt 27 năm trời và sau thành lãnh tụ yêu mến của cả da trắng lẫn da đen, bởi vị tổng thống da trắng Frederik Willem de Klerk đã biết hòa giải.
Ba Lan có thủ lãnh công đoàn Đoàn kết  Lech Wałęsa bị tù, giam lỏng, rồi lên đến Tổng thống bởi vị lãnh đạo cộng sản Wojciech Jaruzelskilúc đó hiểu thời thế.
Thời cách mạng văn hóa, Đặng Tiểu Bình vào tù ra tội, nhưng chính ông đưa nước Trung Hoa lên hàng thứ hai trên thế giới vì thuyết mèo đen mèo trắng.
Niềm hy vọng tiếp theo, cả thế giới đang trông chờ vào sự khéo léo của người phụ nữ tưởng rằng yếu đuối như Suu Kyi. Chính nữ tù nhân lương tâm này sẽ thay đổi Myanmar
Liệu ai đó có rút ra được gì từ bài học “tha tù cứu nước” để tiến tới dân chủ của Myanmar hay lời chân tình bàn về tự do và chữ tín của đứa con bị bỏ rơi Philipp Roesler khi đến Hà Nội.
(Vĩnh Thuận sưu tầm - 21-9-2012)

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Con đường nam tiến của China


Đoan Trang



Con đường bành trướng xuống phía nam của Trung Quốc được thực hiện cả trên bộ lẫn trên biển. Nếu quá bị cuốn vào chuyện biển Đông, chúng ta có thể rơi vào bẫy của Trung Quốc.

“Cần phải nhìn nhận quá trình nam tiến của Trung Quốc một cách toàn diện, trong đó không chỉ có khu vực biển Đông và hình thức xung đột quân sự. Đó còn là quá trình diễn ra trên đất liền với những hình thức chiến tranh kinh tế, chiến tranh tiền tệ, chiến tranh mạng, là bành trướng văn hóa, là áp lực chính trị, là quá trình di dân...” - Đại tá Quách Hải Lượng, nguyên Tùy viên quân sự Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, nhận định.

Phân tích vị trí địa lý của Trung Quốc, ông Quách Hải Lượng không đánh giá cao cơ hội của Trung Quốc ở phía bắc (giáp với Nga), phía đông (bị Nhật Bản, Hàn Quốc án ngữ, mà đó là những đồng minh thân cận của Mỹ) và phía tây (giáp vùng Trung Á, vốn bất ổn với sự cạnh tranh của nhiều cường quốc). Hướng mở rộng của Trung Quốc gần như chỉ có một.

Nhận định này cũng trùng với ý kiến của TS chính trị học Đinh Hoàng Thắng. Trong một cuộc trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, ông Thắng nói: “Phải thấy là Trung Quốc chỉ còn phía nam để phát triển xuống. Thế kỷ 21 là thế kỷ của đại dương, nếu chỉ dừng chân trong lục địa Trung Hoa thì không được, mà các ngả khác thì bị chặn hết rồi”.

Biểu hiện rõ ràng nhất của tư tưởng “nam tiến” có lẽ đã xuất hiện từ thời Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Quốc từ năm 1949 đến năm 1976. Tháng 9-1963, Chu Ân Lai phát biểu trong cuộc gặp gỡ với các đại diện của Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Indonesia tại Quảng Đông: “Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam châu Á” (Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm, NXB Sự thật, năm 1979).

Đồng tiền đi trước

Hiếm khi nào trong lịch sử sự hiện diện của Trung Quốc ở Đông Nam Á lại mạnh mẽ trên tất cả lĩnh vực như từ một thập kỷ trở lại đây. Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar, với sự gắn kết chặt chẽ về địa lý và văn hóa với Trung Quốc, với những yếu kém nội tại của mình, là mắt xích yếu nhất dọc biên giới mà người láng giềng phương bắc của họ có thể khai thác. Đồng tiền đi trước, con đường đầu tư kinh tế có lẽ là lối đi nhanh và hiệu quả nhất. Trong một bài viết mới đây, nhà nghiên cứu Trung Quốc Bonnie S. Glaser (Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS, Mỹ) cho biết: “Trong hơn một thập kỷ qua, Trung Quốc đã theo đuổi một chiến lược ở Đông Nam Á với nội dung căn bản là sử dụng “củ cà rốt” kinh tế để làm tăng lợi ích của các nước Đông Nam Á trong việc gìn giữ quan hệ tốt với Trung Quốc”.

Năm 2010, với những khoản đầu tư trị giá 2,9 tỉ USD, Trung Quốc trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Lào và có trong tay khoảng 10.000 km2 đất dự án, tương đương với 4% diện tích của cả nước Lào. Người Trung Quốc kiểm soát phần lớn nền kinh tế Lào, từ khai thác mỏ, thủy điện đến cao su, hay cả ngành bán lẻ và dịch vụ khách sạn.

Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở Campuchia: Trong năm năm qua, Campuchia đã nhận được khoảng 2 tỉ USD tiền viện trợ từ Bắc Kinh với những điều kiện hết sức hào phóng.

Tại Myanmar, 8,7 tỉ USD đã được Trung Quốc rót vào các dự án đầu tư trong năm 2010, chưa kể khoản vay không lãi trị giá 4,2 tỉ USD. Tính đến tháng 7-2011, 800 dự án của các nhà đầu tư Trung Quốc cũng đang hoạt động tại Việt Nam với số vốn đăng ký 3,2 tỉ USD, đứng thứ năm trong các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

“Làm đường đến đâu xâm chiếm đến đấy”

Đầu tháng 7-2012, lần đầu tiên Hội nghị các ngoại trưởng ASEAN với lịch sử 45 năm không thể đưa ra được thông cáo chung mà lý do là sự bất đồng của nước chủ nhà Campuchia với các nước có liên quan đến tranh chấp trên biển Đông. Nguyên nhân sâu xa này nhanh chóng được lý giải khi ngay sau hội nghị, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cảm ơn Campuchia về sự hợp tác chặt chẽ của chủ nhà trong tiến trình hội nghị.

Nhà phân tích Bonnie S. Glaser nhận định: “Việc Trung Quốc gây ảnh hưởng khống chế lên Campuchia không phải điều đáng ngạc nhiên. Bắc Kinh đã cung cấp tới hơn 10 tỉ USD đầu tư trực tiếp cho Campuchia. Chỉ tính riêng trong năm 2011, lượng đầu tư mà Trung Quốc cam kết với Phnom Penh cao gấp 10 lần con số Mỹ cam kết. Sự phụ thuộc của Campuchia vào Trung Quốc, về mặt kinh tế, thể hiện rõ ở Cung điện Hòa Bình - công trình được xây bằng tiền tài trợ của Trung Quốc - là nơi họp hội nghị thượng đỉnh ASEAN vừa qua”.

Tháng 6-2011, thủ tướng Campuchia công khai khẳng định Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất, đồng thời là nhà tài trợ lớn nhất trong việc giúp đỡ Campuchia xây dựng cơ sở hạ tầng, gồm đường sá, cầu cống... Vấn đề ở đây, theo các nhà phân tích, là các thỏa thuận kinh tế luôn kéo theo những hệ quả chính trị, xã hội, quân sự đã được hoạch định từ trước đó.

Đại tá Quách Hải Lượng nói: “Trung Quốc rất giỏi trong việc xâm chiếm bằng cách làm đường. Làm đường đến đâu xâm chiếm đến đấy, di dân đến đấy. Họ mưu tính làm một con đường suốt từ Vân Nam đi dọc Lào xuống tới tận Tây Nguyên, mà ở đoạn cuối Tây Nguyên thì Campuchia và Lào cho họ thuê đất tới 55 năm. Như vậy cả khu vực sẽ gần như là đất của họ”.

“Đứng về chiến lược quân sự, đó là những con đường cơ động chiến lược và cơ động chiến dịch. Về kinh tế thì có thể khống chế được toàn bộ các hành lang quan trọng của bán đảo Đông Dương. Họ xây dựng cơ sở hạ tầng là nhằm như thế” - ông Lượng giải thích.

Trung Quốc đang nắn dần đường biên giới quốc gia không theo cách thức tấn công quân sự truyền thống mà bằng cách di dân. Số liệu thống kê chưa đầy đủ cho thấy có khoảng 2,5 triệu người Hoa đến Đông Nam Á làm ăn sinh sống trong vòng 30 năm qua. Khoảng 1 triệu người Trung Quốc cũng đã di dân đến Myanmar trong giai đoạn 1995-2005, theo báo cáo của nhà nghiên cứu độc lập Sudha Ramachandran (Ấn Độ) và khoảng 300.000 người Trung Quốc đang sinh sống rải rác khắp nơi ở Campuchia. Đây hầu hết là lao động Trung Quốc tìm cách ở lại khu vực bản địa sau khi hết hợp đồng với các dự án. Họ thậm chí hình thành nên các khu "phố Tàu" như ở Mandalay (Myanmar) hay Viêng Chăn (Lào).

Tại Lào, một doanh nghiệp Trung Quốc đã thuê cả một thị trấn nằm sát biên giới hai nước và biến nơi đây gần như thành khu vực của riêng người Trung Quốc. Thị trấn rộng 21 km2 được đặt tên là Bò Thèn này có ngôn ngữ chính là tiếng Trung, thanh toán bằng nhân dân tệ và sử dụng giờ Bắc Kinh thay vì giờ Viêng Chăn. Hệ thống điện, viễn thông và ngay cả các lực lượng chức năng như công an cũng đều được “kéo” từ Trung Quốc sang. Lực lượng hải quan đã dời từ biên giới Lào-Trung xuống phía nam của thị trấn này. (Trung Quốc tăng cường di dân sang Lào, website nghiencuubiendong.vn, Học viện Ngoại giao, 29-3-2010).

Nói đến sự hiện diện của người Trung Quốc ở các khu Hoa kiều và nhiều khu vực có dự án đầu tư ở Việt Nam, Đại tá Quách Hải Lượng nói: “Nếu chấm trên bản đồ Việt Nam những khu vực có người Trung Quốc sinh sống, chúng ta sẽ có một tấm bản đồ da báo”.



Tiếng Anh trên bằng đại học!


Trang Web của GS Ng Văn Tuấn
Thứ bảy, 08 Tháng 9 2012 09:15
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiFURLvAB_ssiEJo5W7dydV9cnt7t1E34ez0-_yP-KrocxTC6-SUGJZB5-hepXcwqab86RXvrNLfcfMbZTJ9ivhwVFRydM-sReZrUywCDpzg_t7rDFOG3oaTgm-MaZYSHtW5rez08G-iE-t/s400/phoibang.jpgĐọc bài này (Mất cơ hội việc tốt vì tiếng Anh trên bằng tốt nghiệp) mới thấy thương sinh viên Việt Nam. Chỉ vì cách viết tiếng Anh không giống ai trên văn bằng mà ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự nghiệp của một cá nhân. Vấn đề không chỉ là tiếng Anh, mà còn là hội nhập. Cách viết tiếng Anh trên văn bằng của Việt Nam cần nên xem xét lại và sửa đổi sao cho phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.

Trước đây, khi có người nêu vấn đề, tôi không hiểu văn bằng “Degree of Associate” là gì, nhưng nay thì tôi hiểu danh xưng văn bằng đó xuất phát từ đâu. Như bài báo này cho biết thì nó xuất phát từ những qui định trong Thông tư 19 của Bộ GD-ĐT. Và, theo tôi thì những qui định này nên xem xét lại. Qui định của Bộ GD-ĐT viết như sau:
Phía dưới dòng chữ “has conferred” tại trang 2 ghi tên văn bằng, bằng tiếng Anh, cụ thể:
Đối với ngành kỹ thuật ghi “THE DEGREE OF ENGINEER”.
Đối với ngành kiến trúc ghi “THE DEGREE OF ARCHITECT”.
Đối với ngành y ghi “THE DEGREE OF DOCTOR OF MEDICINE” hoặc “THE DEGREE OF BACHELOR”.
Đối với ngành dược ghi “THE DEGREE OF PHARMACIST” hoặc “THE DEGREE OF BACHELOR”.
Đối với các ngành khoa học cơ bản, sư phạm, luật, kinh tế ghi “THE DEGREE OF BACHELOR”.
Đối với các ngành còn lại ghi “THE DEGREE OF BACHELOR”.
(Trích Thông tư số 19 của Bộ GD-ĐT về mẫu bằng tốt nghiệp ĐH)

Cách viết văn bằng như qui định trên đây có thể tóm tắt theo công thức: DEGREE + danh xưng nghề nghiệp. Cách viết như thế thể hiện sự lẫn lộn về danh xưng nghề nghiệp và văn bằng. Những danh từ như engineer (kĩ sư), architect(kiến trúc sư), pharmacist (dược sĩ) là danh xưng nghề nghiệp. Nhưng bachelor thì không phải là danh xưng nghề nghiệp mà là một văn bằng cử nhân. (Dĩ nhiên, chữ bachelor trong tiếg Anh còn có nghĩa là người độc thân, nhưng chúng ta sẽ không bàn ở đây). Còn doctor of medicine thì là một văn bằng hẳn hoi (M.D).
Thông thường cách viết tên văn bằng của các đại học trên thế giới (ngoại trừ Việt Nam) thì theo công thức Học vị + Chương trình học. Học vị ở đây có nghĩa tiếng Anh là Award. Những danh vị như Bachelor (cử nhân), Master (cao học), Doctor (tiến sĩ) là award. Chương trình học là danh từ chung để chỉ những ngành như khoa học (science), kĩ thuật (engineering), y học (medicine), v.v… Thỉnh thoảng có trường còn thêm ngành học (major) trong văn bằng. Chẳng hạn như văn bằng là Bachelor of Science, nhưng ngành học có thể là vật lí, toán, sinh học, v.v. Hiếm thấy trường nào (hay có mà tôi không biết) viết theo công thức của Việt Nam.
Có lẽ cũng cần bàn qua chữ degree trong văn phong khoa bảng. Trong văn nói hàng ngày hay văn viết không trịnh trọng (informal), chúng ta thường nói hay viết he has a degree in biology có thể hiểu rằng ông ấy có một văn bằng về sinh học. Chữ degree ở đây được hiểu là cấp cử nhân trở lên, vì người có bằng diploma hay certificate thì không thể xem là có degree được. Degree không nói cụ thể ông ấy có văn bằng cấp cử nhân, cao học, hay tiến sĩ. Degreethường dùng trong văn nói, chứ ít khi nào (có nhưng ít) trong văn bằng mang tính pháp lí. Do đó:
  • khi viết “DEGREE OF BACHELOR” (như cách viết của Bộ GD-ĐT) là thiếu. Thiếu là vì người ta không biết bachelor về ngành gì;
  • khi viết “THE DEGREE OF PHARMACIST”, “DEGREE OF ARCHITECT” (cũng là cách viết của Bộ GD-ĐT) thì không có ý nghĩa gì cả!
  • khi viết “THE DEGREE OF DOCTOR OF MEDICINE” thì thể hiện một nhầm lẫn lớn. Ở Mĩ, Doctor of Medicine là một học vị sau đại học, không thể xem tương đương với cử nhân được. Ở Úc và Anh, Doctor of Medicine cũng là một bằng sau đại học.

Nói chung, cách viết của Bộ còn thiếu nhất quán. Nếu viết Degree of Pharmacist, thì người ta phải hỏi tại sao không viết “Degree of Biologist”, “Degree of Economist”, “Degree of Lawyer”, v.v. mà lại viết chung là “Degree of Bachelor”?!
Vấn đề kế đến là tiếng Anh chưa ổn. Chẳng hạn như cụm từ “The President of Saigon Technology University has conferred THE DEGREE OF ENGINEER Upon Mr. Bui Tu San” là không chuẩn. Đây là cách viết rất Việt Nam, vì sau động từ confer là tên bằng cấp rồi mới đến tên cá nhân. Cách viết tiếng Anh đúng phải là cá nhân trước rồi mới đến tên bằng cấp [cấp cho ông ABC văn bằng cử nhân XYZ, chứ không phải cấp bằng cử nhân XYZ cho ông ABC]. Thứ hai là một cá nhân hiệu trưởng thì không cấp bằng được, mà phải là hội đồng hay một cơ chế tương tự mới cấp bằng cho thí sinh. Đáng lẽ nên viết là:
THE SAIGON UNIVERSITY OF TECHNOLOGY
By authority of the University Council
has conferred upon

BUI TU SAN
The Degree of
BACHELOR OF SCIENCE

(và những dòng chữ mang tính pháp lí)

Ở Úc thì các đại học có cách viết trang trọng như sau (ví dụ):

THE UNIVERSITY OF SYDNEY
By authority of the Council

THU NGOC TRAN
has this day been admitted to the degree of
BACHELOR OF SCIENCE
and to all the privileges attached thereto.
The Common Seal of the University has been hereto affixed
This twentyfifth day of September 2008


Tóm lại, vấn đề bài báo nêu lên rất đáng quan tâm. Tôi nghĩ Bộ GD-ĐT nên xem xét kĩ và tham khảo cách viết tiếng Anh trên văn bằng ở nước ngoài để có một chuẩn phù hợp với qui ước quốc tế hơn. Không nên viết phôi bằng theo công thức "Degree + tên nghề nghiệp", mà nên viết theo công thức "Học vị + Chương trình học" như thông lệ quốc tế. Cũng nên chỉnh sửa tiếng Anh cho đúng chuẩn mực hơn. Không nên vì bảo thủ mà gây ảnh hưởng đến sự nghiệp và việc học của nhiều cá nhân, hay thậm chí một cá nhân.
NVT
TB 1. Có bạn chỉ ra rằng cách viết "confer sth on/upon sb như  The Queen conferred knighthoods on several distinguished men" cũng ok. Tôi đồng ý.
Một ý kiến khác là "The Saigon University of Technology" thì không cần "The". Tôi cũng đồng ý luôn. Nhưng có khi tôi thấy trong công văn của ĐH Oxford họ viết là "The Oxford University" mà không là "The University of Oxford". Tôi có một bài bàn về chuyện này ở đây.
TB 2. Sau đây là trích vài trao đổi giữa những người am hiểu về văn bằng để các bạn tham khảo thêm:
HDT:
Vâng, ở Pháp có văn bằng tốt nghiệp gọi là Diplome d'ingénieur, ngày xưa dịch sang tiếng Anh là Diploma of engineering (viết tắt là Dipl.-Ing. hoặc DI), bây giờ thì để thống nhất tên gọi (vì số năm học tương đương) người ta dịch là Master’s Degree in Engineering, sau đó nếu cần thì thêm thông tin về ngành nghề chuyên môn sau.
Sở dĩ ông cục trưởng này dịch sai là vì bằng này không có trong các nước nói tiếng Anh (http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/87526/mat-co-hoi-viec-tot-vi-tieng-anh-tren-bang-tot-nghiep.html), và ông ta không biết người ta dịch là gì nên dịch sai thôi. Căn bản nói về hai hệ đào tạo "kỹ sư" và "tổng hợp" là đúng, vì VN chị ảnh hưởng của Pháp, mà Pháp thì có hai loại hình đào tạo khác nhau này. Trước 75 cả hai miền Nam bắc đều có hai loại trường "đại học  và "trường kỹ sư", thí dụ như Bách Khoa Phú Thọ hay Bách Khoa Hà Nội.
NĐH:
Kỹ sư là một bằng cấp đàng hoàng đã có mặt lâu cả mấy thế kỷ rồi tại nhiều nước Châu Âu (không thuộc chi phái Anglo-saxon), như Pháp (mà anh Tuấn vừa giài thích), Bỉ , Thụy Sỹ, các nước Đông Âu như Tiệp, Hung, Ba Lan ... Tại Bỉ phải thi tuyển vào các lớp kỹ sư (Etudes d'ingénieur) học 5 năm làm luận văn ra trường là tốt nghiệp bằng kỹ sư. Kỹ sư là một ngạch có chế độ lương hẳn hoi, cao hơn cử nhân học chí có 4 năm mà chẳng cần phải qua thi tuyển (Cử nhân toán, vật lý, sinh học) như kỹ sư điện, xây dựng, hóa học, cơ khí. Sau này có thêm kỹ sư vật lý, toán ứng dụng. Còn tiến sỹ thì không phải là một ngạch không có chế độ lương tuy kỹ sư phải thêm 3 năm mới có bằng tiến sỹ khoa học ứng dụng (docteur des sciences appliquées). Bên Pháp kỹ sư grandes écoles cũng phải 5 năm, hai năm Math. (sup. rồi spéc.) rồi thi tuyển vào grandes écoles học thêm 3 năm thì có bằng kỹ sư chẳng hạn cầu đường, công chánh. Tại Việt Nam ta hiện nay cũng có bằng kỹ sư, tiếp thu truyền thống của Pháp và Đông Âu, nhưng chỉ học 4,5 năm thôi. Hiện nay tại Việt nam không có bằng cử nhận xây dựng, chỉ có kỹ sư xây dựng.
Tại Châu Âu 20 nước sau hiệp ước Bolonia (2001), tất cả các nước thay đổi theo chế độ Anglo-saxon (và sẽ phải thực hiện cho đến 2010 là phải xong): 3 năm: Bachelor (cử nhân), +2 năm: Master +3: Ph.D.  Tại Bỉ cải cách được áp dụng rất nhanh. Qua năm 2006 thì toàn bộ các ĐH Bỉ đổi qua chế độ mới mà các bạn ở Úc hay Mỹ quen thuộc... Pháp bảo thủ hơn, đi chậm hơn nhất là các grandes écoles.. Tuy nhiên theo chỗ tôi biết thì nay hầu hết các ĐH đã hoàn thành ngả qua chế độ mới. Tại VN, tôi đã cố vận động cải cách theo hiệp ước Bolonia cho phù hớp với thế giới nhưng hoàn toàn thất bại cho đến này nay.
(Vĩnh Thuận - Ngọc hà - 18/9/2012)

Thứ Ba, 11 tháng 9, 2012

TOÁN HỌC LÀ GÌ?



Oevermann và Frimmer
(Tạp chí Tia Sáng - 11/9/2012)

Một cách nôm na, khi nói về các ngành khoa học, người ta thường tóm gọn như sau: Luật sư làm việc với các điều luật, nhà phê bình văn học thảo luận về các quyển sách, bác sỹ nghiên cứu các loại bệnh tật. Với nhà toán học, người ta nói đơn giản: Ông ta tính toán. Nhưng thực sự việc “tính toán” đó diễn ra như thế nào. Chúng tôi hỏi GS Nagel:



Hỏi: Thưa Ông Nagel, ông có thể làm ơn, một cách hình thức và trong khoảng năm câu, giải thích cho chúng tôi, một cách cốt lõi, toán học là gì?

GS. Nagel: Không thể! Với toán học, không thể có cái gọi là cốt lõi. Bên trong toán học và giữa các nhà toán học có một sự khác biệt lớn. Một mặt, người ta có thể sử dụng toán học để giải quyết những vấn đề thực sự mang tính ứng dụng, và mặt khác, có những nhà toán học quan tâm đến những vấn đề nền tảng mang tính tự thân của toán học và do đó (nhiều lúc là cần phải) không để ý gì đến các vấn đề ứng dụng. Vì thế, về mặt này, người ta có thể xem toán học như là một “hoạt động thuần túy tinh thần của con người” (pour l’hounneur de l’esprit humain) và có một thực tế rằng, những bài toán khó khăn đối với tư duy con người có thể được giải quyết trong những giây phút thăng hoa của tinh thần. Việc đó đã diễn ra 2500 năm rồi, từ xa xưa, những người Hy lạp cổ đại đã đặt ra và giải quyết những vấn đề trừu tượng của toán học.

Làm sao người ta có thể tìm được những lời giải như vậy? Ông có thể giải thích cho chúng tôi thông qua quá trình làm việc của chính ông được không?


Tôi đã giải quyết nhiều vấn đề mà thậm chí không dùng đến giấy bút hay máy tính, đơn giản là chỉ dùng đầu óc của mình. Đôi khi, khi tôi nằm trên giường và không ngủ được, thì tôi nghĩ về một bài toán khó. Do đó, tôi cho rằng, nhà toán học có thể làm việc ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào – nhưng mà không bắt buộc! Tôi không cần đến phòng thí nghiệm hay là phương tiện hiện đại nào, mà trái lại tôi thường nẩy sinh ra ý tưởng khi đang đạp xe hay đang chạy thể dục. Tất nhiên, sau đó, thỉng thoảng người ta phải kiểm tra lại các ý tưởng bằng các tính toán cụ thể bằng giấy và bút chì. Để tôi kể cho các bạn nghe câu chuyện hài hước: Felix Klein, nhà toán học có tiếng của thể kỷ 19, một lần bị hỏi xoáy bởi một nhà hóa học rằng: “Tôi thấy ngài suốt ngày ngồi ở quán cà phê, thế khi nào thì ngài làm việc?” Klein trả lời: “Ngài biết không, toán học khó đến nỗi người ta chỉ có thể làm việc với nó nửa giờ trong một ngày”. Tất nhiên, đó là câu chuyện tếu, nhưng nó cho thấy rằng, so với một nhà hóa học, người luôn phải gắn với phòng thí nghiệm, thì nhà toán học tự do hơn và không phục thuộc nhiều vào thiết bị xung quanh khi tiến hành công việc của mình.

Ngày nay, những vấn đề mới của Toán học nảy sinh từ đâu?

Một mặt, những vấn đề mới nảy sinh ngay trong bản thân Toán học. Khi mà phạm vi toán học được mở rộng thì càng nhiều vấn đề mới nẩy sinh. Mặt khác, các vấn đề mới của Toán nảy sinh ngay trong xã hội của chúng ta: có những ví dụ quan trọng về mô hình toán học của sự khủng hoảng tài chính. Một số nhà toán học đã đoạt giải Nobel về kinh tế. Những lĩnh vực khác có sự tham gia của Toán học là: Nén dữ liệu, bảo mật dữ liệu, thiết kế mạng tối ưu, và nhiều thứ khác nữa.

Câu hỏi sau đây có thể làm ông bực mình hoặc cảm thấy buồn tẻ: Có những bài toán lớn trải qua hàng trăm năm không có lời giải. Làm sao mà người ta lại có cảm hứng để theo đuổi những bài toán như vậy năm này qua năm khác?

Bản thân tôi không làm việc với những bài toán thế kỷ như vậy. Chúng nằm trong một giải đấu (Liga) khác. Tôi nghiên cứu những bài toán khó đối với tôi. Nó giống như là tập thể thao, tôi phải luyện tập rất nhiều, và khi đạt đến mục tiêu thì tôi có thể thở phào nhẹ nhõm. Đó là một cảm giác tuyệt vời. Trên tất cả, việc tìm thấy một lời giải luôn là nguồn cảm hứng cho sự cố gắng không ngừng. Đến lúc đó, tôi có thể viết ra trên bảng: phép chứng minh, sự chính xác, và thế là xong. Đối với toán học, không có cái gọi là “định đề” hay “phản đề” như trong môn thần học. Trái lại, luôn có một sự tách bạch rõ ràng giữa đúng và sai. Một định lý, một khi đã được chứng minh là đúng đắn, thì cho dù hàng trăm năm trôi qua, có thể nó không còn thích hợp với thời cuộc nữa, nhưng nó vẫn luôn đúng đắn.

Điều đó nghe có vẻ rất hài hòa. Chẳng lẽ không có sự cãi cọ hay xung đột hàn lâm giữa các công trình toán học? Phải chăng tất cả các nhà toán học là bạn tốt của nhau?

Về chuyên môn thì đúng là như vậy! Những kết quả của Euclid, Pascal hay Newton bây giờ vẫn còn đúng giống như nó đã từng đúng trước đây. Chúng tôi không để ý đến những sự nhập nhằng giữa đúng và sai, giữa sự quan trọng hay không quan trọng, giữa đẹp và xấu. Có lẽ đó là sự thiếu hụt của toán học và của các nhà toán học, chúng tôi thiếu đi một văn hóa tranh luận mang tính triết học. Tuy nhiên, chúng tôi hiển nhiên cũng có những thảo luận mang hơi hướng triết học chẳng hạn: thế nào là một phép chứng minh, thế nào là tiên đề, thế nào là “đúng”.

Đại học Tuebingen đã quyết định tích hợp toán và các khoa học tự nhiên để lập nên một khoa rất tổng quát gọi là Khoa “Toán và Khoa học Tự nhiên”. Về mặt nguyên lý, Toán học đóng vai trò như thế nào đối với các khoa học tự nhiên khác?


Trong các khoa học tự nhiên, người ta nghiên cứu “Cuốn sách của tự nhiên” . Và cuốn sách này, theo Galileo, được viết dưới ngôn ngữ toán học. Đó là một triết lý đẹp đẽ về quan hệ giữa toán và các khoa học tự nhiên. Việc thành lập Khoa “Toán và Khoa học Tự nhiên” này cũng chẳng phải là quyết định đặc biệt gì của Trường Tuebingen, chẳng qua Trường đã tuân theo một truyền thống lâu đời. Mặt khác, toán học có những khía cạnh chẳng liên quan gì đến khoa học tự nhiên cả, ví dụ như những ứng dụng của nó trong khoa học xã hội, kinh tế hay là trong tin học. Tất nhiên, trong sâu thẳm lý thuyết của nó (cái làm nền tảng cho tất cả ứng dụng khác), toán học đóng một vai trò là một cấu trúc của tinh thần không cần tham chiếu đến tự nhiên hay các định chế khác.

Người ngoại đạo luôn nhìn thấy ở Toán học những cấu trúc có quá ít ứng dụng và xem đó đơn thuần chỉ là “Nghệ thuật vị nghệ thuật”. Vì thế, nảy sinh câu hỏi: Phải chăng toán học chỉ có thể thỏa mãn đòi hỏi về mặt bản ngã của một số ít trí thức chứ nó không thể sáng tạo ra những giá trị đa dạng thích hợp đối với xã hội?

Sự sáng tạo ra những “giá trị đa dạng thích hợp đối với xã hội” không nên và không thể là mục đích duy nhất của những hoạt động của con người. Xã hội chúng ta cần phải bổ sung thêm những sáng tạo không bị những ép buộc và kích thích mang tính vật chất. Người ta không nên cứ luôn hỏi: “Ứng dụng cuối cùng của mớ lý thuyết đó là gì?”. Trên cương vị của một giảng viên đại học, nguyên tắc của tôi là luôn để cho các sinh viên của tôi có tinh thần tự do trong suy nghĩ và trong công việc. Những bài toán khó sẽ được giải quyết tùy theo thời gian và sự cố gắng. Đó là một trong những triết lý giáo dục của tôi. Cái thực tế rằng sau khi có được những suy nghĩ trừu tượng người ta có thể quay trở lại với những giá trị đa dạng thích hợp với xã hội, chính là một khía cạnh quyến rũ rất đặc biệt của Toán học.

Có thể xem các nhà toán học như là các nhà khám phá được không? Phải chăng bản thân tự nhiên tự nó đã tạo sẵn những lý thuyết rồi và các nhà toán học chỉ việc chuyển nó sang những khuôn dạng hữu hình và chính xác?

Đó là một câu hỏi cổ điển, từ thời Platon xa xưa, các đối tượng của toán học đã có sẵn trong “thế giới lý tưởng” của ông ta. Phần lớn các nhà toán học thuần túy lý thuyết đều “vô tình” thuộc vào trường phái Platon, với họ thì những đối tượng trừu tượng của toán học đã tồn tại từ trước, và họ chỉ phải khám phá chúng ra mà thôi. Tuy nhiên, đây là vấn đề luôn gây tranh cãi. Người ta cũng cho rằng những đối tượng đó chỉ có thể tồn tại thông qua những cách xây dựng cụ thể và quá trình tính toán cụ thể.

Về mặt cá nhân, tại sao ông lại luôn có hứng thú với toán học?

Nguồn gây cảm hứng cho tôi chính là sự đẹp đẽ và sự rõ ràng của lý thuyết thuần túy. Thật là kỳ diệu khi chứng kiến những mục đích mà tinh thần con người có thể dẫn chúng ta đến. Mặt khác, toán học là sự trừu tượng hóa chung cho các ngành khoa học đang diễn tiến riêng rẽ trong thế giới xung quanh ta. Do vậy, những nhà toán học luôn dễ dàng trong việc tiếp cận văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo khác nhau trên toàn cầu. Đó chính là một trải nghiệm đẹp đẽ trong một thế giới toàn cầu hóa vẫn còn nhiều xung đột và hiểu nhầm như hiện nay.
Xin cảm ơn ông Nagel về cuộc nói chuyện này!

GS Rainer Nagel là giáo sư phụ trách môn Giải tích hàm ở trường Đại học Tuebingen, CHLB Đức.
Ông đã góp phần đào tạo nhiều thế hệ sinh viên và các nhà toán học của Việt Nam cũng như đã gửi rất nhiều tài liệu quý giá cho các học giả ở Việt Nam.

Nguyễn Thiệu Huy dịch
Nguồn: http://www.fa.uni-tuebingen.de/members/rana/RN_interview.pdf

(Vĩnh Thuận - Ngọc Hà - 11/9/2012 - 23h30 - ngày giỗ cụ bà Ngũ 26/7 âm)

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012

ĐI CHƠI BÁCH THẢO ngày 3-9

Ngày 3-9-2012, trời nắng đẹp, gió mát tiết thu, Bách Thảo ngập tràn trẻ em đi chơi. Bảo Linh hòa vào dòng các bạn cùng bố mẹ tung tăng trong công viên. Lát sau, anh Kiên được cậu Quang đưa ra chơi cầu lông, rồi Bà Mến ra cho Linh leo núi Nùng.

Ông ngoại chụp vài ảnh ghi nét nắng vàng cùng cây xanh làm nền cho các cháu thiếu nhi, chủ nhân tương lai của đất nước. Công nhận con máy Nikon 16 chấm chụp cảnh ngoài trời tốt thật, đáng bát gạo đồng tiền, mà vẫn nhỏ gọn mang đi du lịch.

Ở Bách Thảo có 1 góc đặt các tác phẩm của Liên hoan quốc tế các nhà tạo hình - họa sĩ. Các cháu Kiên Linh hay ra chơi khu vực này và gọi 1 tác phẩm là "trứng Khủng Long". Cháu Bảo Linh trèo lên Trứng Khủng Long:


Bảo Linh nằm che mắt không cho ông ngoại chụp ảnh:

Phía xa có 1 bức tượng đá trắng ("Suối nguồn") mà khi còn sống, cụ Sinh đã cùng các cụ trong CLB Thơ Ngọc Hà vịnh bức tượng này:


Một cháu gái váy hồng tung tăng chơi trong công viên:

Hai cậu cháu chơi cầu lông:


Cậu và Kiên Linh ở gần chuồng khỉ:

Bà cho Linh ăn viên phô mai bò cười

(Vĩnh Thuận - 3/9/2012 - 17h30 - Ngọc hà)