Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

LỊCH SỬ QUAN HỆ VIỆT - CAO LY


Tia sáng - 02:14-29/10/2012 

Quan hệ Việt - Triều: Từ góc độ lịch sử - văn hóa

Trần Trọng Dương

Ngôi làng cổ ở tỉnh Nam Jeolla - Naganeupseong
rộng 22,6 km2 được xây dựng dưới triều đại Chosun
Quan hệ ngoại giao Việt - Hàn bắt đầu từ năm 1992, trong khi quan hệ ngoại giao Việt - Triều có trước đó 42 năm (1950). Đây là những quan hệ song phương giữa các nhà nước. Tuy nhiên, từ góc độ lịch sử - văn hóa, mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Triều đã có từ thời Trung đại, dài hơn rất nhiều so với mối quan hệ ngoại giao giữa các nhà nước hiện nay. Bài viết này chủ yếu mang tính chất giới thiệu những thành quả mới nhất trong nhiều năm qua về mối quan hệ đặc biệt này.
Việt - Triều trong đối ứng Trung Hoa

Vị trí địa lý hẳn nhiên là một yếu tố tiên quyết cho mối quan hệ Việt- Triều. Việt Nam nằm ở phía Đông Nam, Triều Tiên nằm ở phía Đông Bắc Trung Hoa. Và cái làm nên hằng số văn hóa cho cả hai dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử không gì khác chính là vị trí “sát nách” cận kề với một đại quốc đầy tinh thần bành trướng. Và chính hằng số này đã kéo gần hai dân tộc lại với nhau.

Thử điểm lại vài mốc lịch sử quan trọng. Năm 207 TCN, An Dương Vương và nước Âu Lạc bị Triệu Đà tiêu diệt, sự kiện này mở đầu cho 10 thế kỷ đấu tranh chống đô hộ phương Bắc tại Việt Nam. Tương đương với thời kỳ đó, vào năm 108 TCN, nhà Hán đem đại quân xâm lược bán đảo phía Đông Bắc, nhà nước cổ Chosun của Wi Man (Vệ Mãn) bị thôn tính. Ở Việt Nam xảy ra các cuộc khởi nghĩa của hàng loạt thủ lĩnh người Việt như Triệu Thị Trinh, Trưng Trắc, Lý Bí, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng... chống lại các lực lượng quân sự đô hộ. Ở Triều Tiên là các cuộc chiến tranh của các tiểu quốc Koguryo (Cao Cú Lệ), PecChê (Bách Tế) và Shilla (Tân La) chống lại các nhà Hán, Tùy, Đường. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam nhanh chóng bị dập tắt, và phải đến thế kỷ X với hàng loạt các nỗ lực của các họ Khúc, Dương, Ngô, Lê thì Việt Nam mới giành được độc lập. Trong khi đó, ở bán đảo Triều Tiên nhà Tùy từng hai lần thất bại trước Koguruo. Và sau đó, nhà Đường bị đẩy lui khỏi bán đảo này bởi nhà nước Shilla vào năm 676. Nhưng những cái tên An Nam đô hộ phủ và An Đông đô hộ phủ mà người Hán đặt đã đi vào lịch sử hai dân tộc như những lời cảnh báo.

Trong giai đoạn Trung đại, cả hai nước Việt - Triều đều tồn tại thiết chế trung ương tập quyền và cũng đã nhiều lần tiến hành các cuộc chiến tranh vệ quốc vỹ đại. Nếu như triều Trần 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông, thì Koryo (trong vòng 30 năm từ năm 1231 đến năm 1259) cũng có 6 cuộc chiến tranh chống trả đế quốc này, trong đó có những chiến thắng vang dội tại thành Chơ-In năm 1232. Nếu như triều Tây Sơn làm nên đại thắng quân Thanh vào thời thịnh trị bậc nhất của triều đại này vào năm 1789, thì Triều Tiên cũng hai lần chiến thắng quân xâm lược từ Mãn Châu vào các năm 1627 và 1636.

Nếu so sánh với hàng loạt các quốc gia cổ bị thôn tính, sáp nhập vào lãnh thổ Trung Hoa như Đại Lý, Liêu, Kim, Thổ Phồn... ta sẽ phải đặt ra câu hỏi rằng, điều gì đã khiến cho Việt Nam- Triều Tiên có thể vượt qua những thử thách lịch sử liên quan đến sự tồn vong của dân tộc? Tinh thần quật cường hẳn là một đáp số chung. Nhưng cũng cần phải tính đến ở đây chính là vị trí địa lý đủ xa để các triều đại phong kiến Trung Hoa dù đầy tham vọng nhưng qua nhiều lần cố gắng thì vẫn phải công nhận rằng đây là những mảnh đất “gân gà”- đánh cũng khó mà giữ càng không phải dễ.

Cơ tầng bản địa và yếu tố văn hóa Hán hay phương thức sinh tồn

Trước một thế lực Trung Hoa mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần, hai dân tộc Việt- Triều (cũng phải kể thêm cả Nhật Bản vào đây nữa) đã lựa chọn chính sách song ngữ - song văn hóa trong suốt quãng một ngàn năm: tiếng bản địa được dùng trong đời sống thường nhật, trong các tầng lớp bình dân, và tiếng Hán được sử dụng trong hành chính, thi cử và ngoại giao. Đây chính là yếu tố quan trọng nhất để Việt - Triều được coi như là những nước đồng văn.

Cũng từ chữ Hán, hai dân tộc Việt - Triều đã xây dựng và phát huy thêm các yếu tố văn hóa bản địa của riêng mình. Vào thời Lý, chữ Nôm đã được người Việt sáng tạo ra trên cơ sở tự hình chữ Hán dùng để ghi chép lại tiếng Việt, và thứ văn tự này cho đến nay vẫn là hệ thống chữ viết duy nhất do chính người Việt sáng tạo trong lịch sử 1. Trong khi đó, ở Triều Tiên là chữ Hangưl - một loại văn tự do vua Thế Tông (Sejong) và các triều thần sáng tạo và đưa vào sử dụng từ năm 1446 qua tác phẩm Huấn dân chính âm. Cũng từ đó, văn chương truyền thống của Việt Nam và Triều Tiên chia làm hai dòng chính là văn chương Hán văn và văn học bản ngữ (ở Việt Nam là văn học chữ Nôm, ở Triều Tiên là văn học chữ Hangưl). Việc sử dụng chung chữ Hán đã khiến cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Có thể thấy điều này qua các đánh giá của sứ thần hai bên, cũng như lời nhận định của Minh Mệnh năm 1840 coi Triều Tiên cũng là một nước văn hiến2 giống như Việt Nam. Như thế, văn tự Hán và văn hiến được coi như là một công cụ của chính trị của ngoại giao, nó là công cụ để hiểu rõ người Hán và chống lại mọi mưu đồ của người Hán.

Tác phẩm Phật thuyết (tk XII) đan xen Hán và Nôm.


Văn bản Huấn dân chính âm (tk XV) đan xen Hán và Hangưl. 

Những mốc son trong quan hệ dân tộc Việt – Triều

Có thể nói rằng, trong suốt dọc dài lịch sử, các triều đại phong kiến của cả hai nước Việt - Triều gần như không có mối quan hệ bang giao, thương mại chính thức nào bởi khoảng cách địa lý cùng với hạn chế của điều kiện giao thông. Thế nhưng, từ những đoạn sử rời, chúng ta có thể lần ra được những mốc son trong quan hệ giữa hai dân tộc Việt - Triều.

Năm 1958, Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc là Lý Thừa Vãn, viếng thăm miền Nam Việt Nam. Trong dịp này ông đã tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Thông tin này khiến cho các nhà sử học giật mình. Liền ngay sau đó, các nghiên cứu được đào sâu để vén lộ bức màn huyền bí của lịch sử.

Nhân vật thủy tổ của dòng họ Lý trên đất Triều Tiên lạ lùng thay lại chính là Kiến Bình Vương Lý Long Tường một vị hoàng thân triều Lý của đất Việt, con thứ sáu của vua Lý Anh Tông (1138-1175). Vào đầu thế kỷ XIII, Lý Long Tường cùng thuộc tướng và những người trong họ tộc đã di cư sang Cao Ly để thoát khỏi sự truy sát của nhà Trần. Hiện nay, con cháu các chi họ Lý vẫn đang định cư tại Hoàng Hải, Hán Thành và Đông Hỏa, ở cả hai nước Triều Tiên và Hàn Quốc. Tại đây, dòng họ Lý vẫn còn bảo lưu được các địa danh cổ của tổ tiên như cửa sông Phú Lương (huyện Bồn Tân) - nơi Kiến Bình Vương cập bến, địa danh Ung Tân - nơi họ Lý định cư cắm đất dựng nhà, đồi Julhang nơi có lăng của Kiến Bình Vương, Vọng Quốc đài tại Quảng Đại sơn- nơi vương đứng ngóng mỗi khi nhớ về quê hương. Theo các tư liệu Hán văn hiện còn như Hoa Sơn Quân bản truyện, Hoa Sơn Lý thị tộc phả, Cao Ly sử còn có nhiều thông tin về nhân vật này. Văn bia Thụ Hàng môn kỷ tích bi ghi: “Năm Bính Tuất niên hiệu Bảo Khánh (đời Tống), trong nước có loạn, việc thờ cúng tổ tiên ở nhà tông miếu bị hủy bỏ. Ông là chú vua, khóc ở miếu Nam Bình rồi đem các đồ thờ ở bàn thờ tổ tiên chạy về phía Đông… Ông vượt biển đến sông Phú Lương huyện Bồn Tân nước Cao Ly, ẩn ở Trấn Sơn tại phía Nam phủ thành, đặt hiệu là Vi Tử động”. Văn bia này cũng ghi, Lý Long Tường được coi là anh hùng của nước Cao Ly trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông vào năm 1253, ông được vua Cao Ly phong làm Hoa Sơn Quân, ban 30 dặm đất, lập biển ghi công trạng, cho làm thái ấp để phụng thờ tổ tiên và con cháu đời đời được nhập tịch ở Hoa Sơn. Con cháu Kiến Bình Vương Lý Long Tường hiện nay sống ở cả Triều Tiên và Hàn Quốc, riêng ở Hàn Quốc có khoảng 200 hộ với trên 600 người. Gia phả dòng họ ghi chép 32 đời kể từ đời Lý Thái Tổ, trong đó 6 đời ở Việt Nam và 26 đời ở Hàn Quốc 3.

Theo nghiên cứu của giáo sư Pyon Hong Kee (Phiến Hoàng Cơ) cho biết: dựa trên gia phả dòng họ mang tên Tinh Thiện Lý thị tộc phả được tàng trữ tại thư viện Quốc gia Seoul, ông đã phát hiện thêm một dòng họ Lý gốc Việt thứ hai thường gọi là Lý Tinh Thiện mà ông tổ của dòng họ này là Kiến Hải Vương Lý Dương Côn- hoàng tử (con nuôi) 4 của vua Lý Nhân Tông đã sang Cao Ly từ đầu thế kỷ XII. Theo Cao Ly sử, cháu đời thứ 6 của Lý Tinh Thiện là Lý Nghĩa Mân (Lee Ui Min) được vua Cao Ly là Nghị Tông (Ui Jong, 1146- 1170) phong làm Biệt tướng, sau đó khi làm phụ tá cho Lý Trọng Phu, ông còn được phong làm Trung lang tướng, Tướng quân, Đại tướng quân (1173), Thượng tướng quân (1174), Tây Bắc lộ binh mã sứ (1178). Đến đời vua Minh Tông, ông được phong làm Tư không tả bộc xạ, rồi Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự nắm quyền như Tể tướng Cao Ly trong 6 năm (1190- 1196). Sau đó, ông và ba con trai bị phái Thôi Chung Hiến (Choi Chung Heon) sát hại để đoạt quyền. Dòng họ Lý tại Tinh Thiện (thuộc đạo Giang Nguyễn, Hàn Quốc ngày nay) sau đó được nối kế bởi một người chú của Lý Nghĩa Mân5.

Ông Lý Xương Căn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh TT&VH

Sách Cao Ly sử

Còn theo con số thống kê tổng thể, thì hiện nay có khoảng 3600 người là hậu duệ của hai nhánh nhà Lý đang sinh sống tại Hàn Quốc6. Con cháu họ Lý, từ năm 1994 đến nay, đã nhiều lần về thắp hương cho tổ tiên tại Bắc Ninh, và họ là những thành viên chủ chốt của Hội giao lưu văn hóa Hàn- Việt. Đặc biệt, năm 2010, nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long, ông Lý Xương Căn và gia đình, đã chính thức được nhập tịch trở thành công dân Việt Nam7. Cũng nhân dịp này, cuốn tiểu thuyết lịch sử “Hoàng thúc Lý Long Tường” của tác giả Khương Vũ Hạc (xuất bản năm 1967 tại Hàn Quốc) đã được tái bản lần thứ hai tại Việt Nam. Ước nguyện hồi hương sau 800 năm lưu lạc đã trở thành hiện thực. Ông Căn cùng với những người con dòng họ Lý đang viết tiếp những trang sử hữu nghị giữa hai dân tộc.

Ngoài hai dòng họ Lý trên, giới nghiên cứu còn đề cập đến dòng họ Mạc – hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi (1293-1324) ở Cao Ly. Có một số nguồn thông tin cho biết, Mạc Đĩnh Chi từng được vua Trần Anh Tông cử đi sứ sang nhà Nguyên, trong thời gian này ông gặp được một vị chánh sứ của Cao Ly và trở thành đôi bạn tâm giao, nhiều lần cùng nhau xướng họa thơ văn. Sau đó, Mạc Đĩnh Chi được mời sang thăm kinh đô Hán Thành của Cao Ly, ở đây ông đã lấy một người cháu gái của sứ thần Cao Ly nọ và sinh được một trai một gái. Đây chính là thủy tổ của họ Mạc ở Cao Ly. Rất tiếc cho đến nay, chúng tôi chưa từng được tiếp cận sử liệu gốc của những thông tin trên. Tuy nhiên, theo Lê Khắc Hòe, năm 1926, ông đã từng gặp một hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi- đang trên đường hồi hương về Hưng Yên tìm lại nguồn gốc họ tộc. Theo như lời kể của hậu duệ 20 đời của họ Mạc Cao Ly, người con trai của Mạc Đĩnh Chi làm quan võ, sinh được 12 người con: 8 trai, 4 gái… Ngành trưởng phần đông đều là thương nhân giàu có. Ngành thứ, sau này sinh ra nhiều nhân tài có những đóng góp nhất định cho lịch sử văn hóa Cao Ly. Ông cũng khoe rằng, ông thuộc thế hệ ngành trưởng, thân ở Cao Ly mà hồn ở Việt Nam. Cao Ly là nơi chôn rau cắt rốn nhưng đất Việt mới là quê cha đất tổ. Hồn thiêng sông núi đất Việt luôn luôn gọi ông trở về 8.

Mặc dù, những thông tin trên chưa thực sự được kiểm định bằng các sử liệu khả tín. Song nó có ý nghĩa gợi mở lớn cho những hợp tác khoa học giữa hai dân tộc trong thời gian tới.

Danh nhân Việt - Triều: tình anh em bốn bể

Các triều đại phong kiến Việt- Triều chưa từng có quan hệ bang giao chính thức, song qua các đợt ngoại giao với các triều đại Trung Hoa tại Yên Kinh, các sứ thần hai nước đã nhiều lần gặp gỡ, xướng họa với nhau trên đất Trung Hoa khiến chúng ta có thể đi đến nhận định rằng tình hữu nghị dân tộc Việt- Triều là một mối quan hệ hữu nghị thuần khiết và thanh tao. Theo thống kê hiện nay, tổng cộng số thơ văn xướng họa giữa sứ thần hai nước (từ đợt tiếp xúc Phùng Khắc Khoan- Lý Túy Quang năm 1597 đến chuyến đi sứ của Nguyễn Tư Giản- Nam Đình Thuận năm 1868 tính ra là 371 năm) đã có trên dưới 10 lần hai đoàn sứ bộ Việt Nam - Hàn Quốc gặp nhau xướng họa ở Yên Kinh với 33 sứ thần - tác gia, (Việt Nam: 12 người, Hàn Quốc: 21 người) và 92 bài thơ, văn (thơ: 81 bài, văn: 11 bài) 9. Nếu tính cả đợt đi sứ của Mạc Đĩnh Chi thì các con số có lẽ còn khác nữa. Các tác phẩm này được chép trong hàng chục tập thơ hiện còn lưu trữ được tại Việt Nam (chủ yếu tại Viện NC Hán Nôm) và Hàn Quốc, Triều Tiên.

Như ta biết, sứ giả thời xưa đều phải là những người tài năng lỗi lạc, khoa bảng đứng đầu, họ giữ những chức vị trọng yếu trong triều đình, và khi đi sứ họ cần phải có đủ cả tài năng, chí khí, để thể hiện “phương diện quốc gia”, trong đó “đặc biệt phải làu thông kinh sử, uyên thâm Hán học, cái vốn tri thức cần thiết trong bối cảnh quan hệ bang giao giữa các nước đồng văn” 10. Chúng ta có thể liệt kê ra đây một số danh nhân tiêu biểu của Việt Nam như: Mạc Đĩnh Chi, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Tông Quai, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đề, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Tư Giản,... và các danh nhân của Triều Tiên như Lý Toái Quang, Du Tập Nhất, Hồng Khải Hy, Lý Hiệu Lý, Từ Hữu Phòng, Nam Đình Thuận,... Những sứ giả- nhà thơ này đã viết nên những trang sử hữu nghị thấm đẫm chất văn chương và tinh thần học thuật giữa hai dân tộc Việt - Triều, trong đó điểm nổi bất nhất được thể hiện qua từng câu thơ ấy chính là tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”:

古云四海皆兄弟
相濟同舟出共車
Xưa rằng: bốn bể anh em,
Chung thuyền cùng giúp, chung xe cùng ngồi

Câu thơ trên của Phùng Khắc Khoan dành tặng cho Kim Tiêu Dật sĩ (Triều Tiên). Trong cuộc gặp gỡ năm 1597 này, Phùng Khắc Khoan cùng với các sử thần Triều Tiên đã có đến trên 30 tác phẩm bút đàm, trao đổi học thuật. Theo đánh giá của GS Bùi Duy Tân, cuộc gặp gỡ này được coi như là mốc son mở đầu trong lịch sử hữu nghị Việt - Triều.
彼 此 雖 殊 山 海 域
淵 源 同 一 聖 賢 書
Núi sông tuy đó đây có khác,
Nguồn sâu cùng một sách thánh hiền. (Phùng Khắc Khoan)

Hoặc như:       
我 居 東 國 子 南 鄉
文 軌 由 來 共 百 王
Tôi ở nước Đông, ông nước Nam,
Lịch triều văn hiến vốn sánh ngang. (Lý Toái Quang)

Các trạng nguyên- thi sĩ này cũng tỏ rõ sự hữu hảo cũng như hiểu biết về đất nước của nhau qua những áng thơ văn. Sứ giả Cao Ly Lý Túy Quang từng có những ghi chép như sau về con người và đất nước Đại Việt: “Chuyến đi có 23 người đều vấn búi tóc. Người cao quý thì nhuộm răng, người thấp kém thì mặc áo ngắn đi chân không... Nơi nằm thì phải ở trên giường không có hầm sưởi, ăn uống giống như người Trung Hoa..., ăn mặc phần nhiều là the lụa, không mặc gấm vóc và áo bông. Dáng người đại để sâu mắt, thấp bé... tính nết hiền lành, có biết chữ biết viết, thích tập múa kiếm...”, hay “tôi nghe nói Giao Châu là nơi cực Nam, có nhiều của lạ châu báu, vàng, ngọc lâm lang, đồi mồi, ngà voi, tê giác. Thế cho nên cái khí tinh anh trong lành đặc biệt chung đúc ở đó, có người tài sinh ra ở đấy, há chỉ những của lạ mà thôi đâu”.
Biểu diễn trống cơm Việt Nam và Hàn Quốc trong Tuần lễ Văn hóa Việt Nam –Hàn Quốc tại Hà Nội.

Vào thời Lê trung hưng, Lê Quý Đôn sau khi có tiếp xúc với sứ Cao Ly đã viết mấy lời trong sách Kiến văn tiểu lục như sau: “Nước Cao Ly về thời Đường thuộc An Đông đô hộ phủ... Người dân hiền lành cẩn thận, ham đọc sách, thạo văn học, trọng nghi lễ. Sứ thần nước Việt ta trong thời gian đi sứ Bắc Kinh, cùng với sứ nước họ có qua lại, tặng thơ xướng họa cho nhau... bày tiệc bút đàm, càng tăng thêm tình hữu hảo, sau khi về quán, lại sai 2 vị thiếu khanh mang thổ sản đến tặng”. Sau đó, các sứ giả Triều Tiên có thư lại cảm ơn và biếu tặng sản phẩm đặc biệt của Cao Ly là quạt giấy11. Sách Đồng văn vựng khảo bổ biên có phần chép của Chánh sứ Hồng Khải Hi và Phó sứ Triệu Vinh Tiến về phong tục tập quán nước ta như sau: “Nước An Nam, Nam Chưởng (quan lại nước Nam) đã có chế độ về mũ áo. Người An Nam lấy lụa mỏng làm mũ áo, hơi giống với nước ta. Chỉ có điều họ búi tóc. Nam Chưởng vốn là đất cũ của họ Việt Thường, họ lấy tơ vàng làm mũ áo, chế độ rất khác thường. Mũ làm bằng gấm vàng như Thác Tử (đeo thêm một đoạn đuôi), trang điểm thêm vàng để rủ ra phía sau, tóc buông như người An Nam. Cách ăn mặc của người phương Nam đại thể khác xa như thế.”

Có thể nói, thơ văn xướng họa xung quanh những chuyến tao ngộ giữa các sứ giả Việt- Triều đều là các tác phẩm ngôn từ có sức lay động mạnh mẽ. Các tác phẩm ấy đều được viết bằng tiếng Hán- quốc tế ngữ vào thời bấy giờ, nhưng vẫn đậm đà phong vị dân tộc Việt - Triều. Quả đúng như lời thơ của Nam Đình Thuận (Triều Tiên) đã viết: “Núi sông tuy có khác, bút mực cũng như nhau” (san hà ưng hữu dị, hàn mặc tư tương đồng). Đường đi sứ của những danh nhân đồng thời cũng là con đường thơ ca- con đường của mối quan hệ hòa hiếu. Và các sứ giả- các thi nhân tài hoa đồng thời cũng là sứ giả bang giao hữu nghị ngàn đời giữa hai dân tộc 12

-------------------------------------------------------

1 Trần Trọng Dương. Phật thuyết có phải là bản dịch ở thế kỷ XII?. Tạp chí Ngôn ngữ. 4 (2011), 31-48.

2
 Murasova G.Ph. Quan hệ Việt Nam- Triều Tiên trong các thế kỷ XVII-XIX. M. 1973. tr.126 [Chuyển dẫn. N. Niculin. Quan hệ văn học Việt Nam- Triều Tiên cuối thế kỷ XVI- giữa thế kỷ XVIII. Lưu Liên dịch. TC Văn học. 2-1987. tr. 78.

3
 Phan Huy Lê. tb 2011. Họ Lý Hoa Sơn- Một họ Lý gốc Việt ở Hàn Quốc. Trong “Tìm về cội nguồn”. NXB. Thế giới. H. tr.1023-1029.

4
 Ông là con đẻ của Sùng Hiền Hầu- một tông thất của nhà Lý.

5
 Chuyển dẫn theo Phan Huy Lê. tb 2011. Họ Lý Tinh Thiện- một họ Lý gốc Việt mới phát hiện ở Hàn Quốc. Trong “Tìm về cội nguồn”. NXB. Thế giới. H. tr.1030-1034.

6
 Phan Hiển. Thêm một chi thuộc dòng họ Lý ở Hàn Quốc tìm về Việt Nam. http://dantri.com.vn

7
 Kate Jellema. 2007. Returning home: Ancestor Veneration and the Nationalism of Đổi Mới Vietnam. Modernity and Re-Enchantment: Religion in Post-Revolutionary Vietnam (Philip Taylor edited). Institute of Southeast Asian Studies. Singapore. P. 80- 89.

8
 Lê Khắc Hòe. An Nam tạp chí số 4, tháng 8/ 1926, trang 14 -17. Chuyển dẫn theo Vũ Hiệp. Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi có hậu duệ ở Cao Ly từ thế kỷ XIV đến nay? Nghiên cứu Lịch sử số 2 (285)- 1996, tr. 76-81). Xem thêm Người Việt Nam ở Triều Tiên và mối giao lưu văn hoá Việt – Triều trong lịch sử. Hội khoa học lịch sử Việt Nam. Hà Nội. 1997, tr.75- 82.

9
 Lý Xuân Chung. Nghiên cứu, đánh giá thơ văn xướng họa của các sứ thần hai nước Việt Nam - Hàn Quốc (Luận án Tiến sĩ). Viện NCHán Nôm. Hà Nội. 2009.

10
 Bùi Duy Tân. 2005. Theo dòng khắc luận văn học Trung đại Việt Nam, NXB ĐHQG HN. Tr.250.

11
 Shimizu Taro. Cuộc gặp gỡ của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên ở Trung Quốc trọng tâm là chuyện xảy ra trong thế kỷ XVIII. Lương Thị Thu dịch, Nguyễn Thị Oanh hiệu đính, TC Hán Nôm, 3/2001.

12
 Lời của cố GS. Bùi Duy Tân. 2005. sđd. Tr. 279.

(Vĩnh Thuận sưu tầm - Ngọc hà - 30/10/2012)

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2012

Công viên ở Hà Nội




Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 12: Công viên ở Hà Nội


Công viên đầu tiên ở Hà Nội chính là vườn Bách thảo (Jardin des plantes) được lập vào năm 1889, trên vùng đất của làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp và Khán Xuân.

Vườn Bách thảo ban đầu chỉ là một vườn thí nghiệm, được trao cho một viên dược sĩ hải quân biệt phái về Sở Nông lâm nghiên cứu phương thức di thực các loại thảo mộc từ nước ngoài, tìm ra những giống thích hợp để trồng trên phố. Dần dà, cùng với các giống cây, các luống hoa nở quanh năm đã tạo nên kỳ hoa dị thảo. Rồi người ta bắt đầu nuôi hươu, nai, gấu, hổ và voi cùng nhiều loại chim muông nên vườn còn được gọi là Bách thú.
Chiến tranh thế giới thứ 2 xảy ra, thú không được chăm sóc, nên họ cho chuyển vào Sở thú Sài Gòn. Vườn Bách thảo tuy không lớn nhưng cảnh quan và bóng mát của nó thu hút người đến thưởng ngoạn ngày một đông, khiến cho một thời, người các tỉnh về Hà Nội là phải đi hóng mát hồ Gươm, ghé chợ Đồng Xuân và thăm vườn Bách thảo mới “đủ món”.

Vườn Bách thảo là công viên đầu tiên ở Hà Nội - Ảnh: tư liệu 
Bách thảo cũng là nơi học sinh Trường trung học bảo hộ (còn gọi là Trường Bưởi) nhà ở xa vào đây nghỉ trưa. Những năm 1960, GS Vũ Văn Chuyên thường dẫn sinh viên học dược lên Bách thảo để nhận biết các giống thảo mộc, vốn vô cùng phong phú. Từ khi Hà Nội thành nhượng địa năm 1888 đến đầu những năm 30 của thế kỷ trước, hệ thống vườn hoa và công viên Hà Nội khá hoàn chỉnh, với cây, hoa và tượng đài.
Sau này Hà Nội có thêm một công viên lớn nữa là công viên Thống Nhất. Tham gia xây dựng công viên Thống Nhất không chỉ có cán bộ và công nhân, mà còn có sinh viên, học sinh và công sức của nhân dân. Thời đó phụ nữ chủ yếu mặc quần lụa, sa tanh và quần phíp lồng chun, khi tham gia lao động, có chị em hăng hái quá đã bị sa xuống đống bùn lầy, khi kéo lên được thì quần ở lại.
Tuy bùn bám xuống tận đùi, khó nhìn thấy, nhưng các cô cũng đỏ chín mặt và cánh đàn ông liền cởi áo đưa chị em quấn. Năm 1960, công trình hoàn thành với hai mặt nước trong xanh là hồ Bảy Mẫu và hồ Ba Mẫu (phía bên kia đường Nam Bộ - nay là đường Lê Duẩn - TN). Trên bán đảo Gió có quán Gió, ngoài sân quán có giàn phong lan với khá nhiều giống là điểm hẹn của các nhóm bạn phổ thông hay đại học. Thời bao cấp, công viên Thống Nhất đúng là địa chỉ vui chơi, giải trí.
Tối thứ bảy có ca nhạc ngoài trời, ngày Quốc khánh, Tết Nguyên đán dưới hồ có lướt ván, trên bờ bắn pháo hoa, có thi hoa, chọi chim. Chủ nhật các cặp vợ chồng trẻ dẫn con đến đây dạo chơi và chụp ảnh kỷ niệm. Nhưng trong những ngày còn lại, thì buổi tối, cũng như Bách thảo, công viên Thống Nhất là địa điểm lý tưởng để bày tỏ và biểu diễn các trạng thái tình yêu. Gái làm tiền cũng trà trộn đi kiếm khách, vì thế để ngăn chặn tệ nạn, công an thường xuyên vào công viên kiểm tra.
Nhưng mỗi gốc cây là một đôi trai gái làm sao biết đôi nào yêu nhau, đôi nào bán dâm và để hoàn thành nhiệm vụ, họ thực hiện chính sách nhầm còn hơn bỏ sót. Họ tách hai người ra hai nơi, hỏi cô gái tên gì, anh kia tên gì rồi lại hỏi anh kia tên gì và cô gái tên gì, nếu khớp thì tha (không xin lỗi), còn không khớp thì lập tức bắt cô gái đưa về khu (nay là quận). Nhưng cũng có cô bị bắt oan vì vừa mới quen trên đường (thời bao cấp, các chàng trai có trò tán gái ngoài đường và gọi đó là “cưa đường”, cô nào xiêu xiêu đồng ý vào công viên coi như đã “cưa đổ”), chưa kịp biết tên thật của nhau.



Công viên Thống Nhất cũng là nơi kiếm ăn của “quân quân khu” (chuyên mặc quần áo bộ đội, tiếng lóng là quần áo “dõng”, đi dép đúc, đầu đội mũ cối hay mũ dạ), phía bắc là quân khu ngõ Hoàng An, phía nam là quân khu Vân Hồ. Quân quân khu trấn lột các đôi ngồi ở góc khuất, ngoài tiền, quân quân khu còn lột dép nhựa Tiền Phong, “đúc Tàu”. Cùng nạn “quân quân khu” còn có ăn cắp, chúng quan sát thấy đôi nào đang mải mê là bò đến lấy túi, thậm chí dắt cả xe đạp. Ban ngày bụi đời hay trẻ “dạt vòm” (bỏ nhà đi) ngủ đầy trên ghế đá. Để chỉ những kẻ lười lao động sống lang thang, dân Hà Nội mắng đó là loại "cơm đường, cháo chợ, vợ công viên".
Ngày 19.4.1980, nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Lê Nin (22.4), thành phố quyết định đổi tên công viên Thống Nhất thành công viên Lê Nin. Nhưng rồi, năm 2003, lấy lại tên Thống Nhất vì tên Lê Nin đã được đặt cho vườn hoa Chi Lăng, nơi có bức tượng “ông Lê Nin ở nước Nga”. Đất nước đổi mới, Hà Nội đi đầu trong việc xây dựng nhà nghỉ và không ít đôi đã tìm đến nhà nghỉ, nên công viên không còn là thiên đường của tình yêu, nó trở nên vắng tanh, hoa cỏ xác xơ, cây cối héo hon, lòng hồ hôi thối và cả công viên như một nhà toa lét công cộng.
Lấy cớ công viên xuống cấp, một công ty đã trình thành phố dự án biến khu vực phía nam thành các khu nhà với các trò chơi nhưng đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của báo chí, nhân dân và giới kiến trúc. Rồi trước kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, người ta đổ một đống tiền vào đây để cải tạo với mong muốn tạo nên “một không gian sinh hoạt văn hóa, vui chơi sạch đẹp, hấp dẫn người dân trong các dịp lễ hội và kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội”. Nhưng hiện nay, đây vẫn chỉ là nơi tập thể dục của người cao tuổi, và chỗ ngủ qua đêm cho kẻ lang thang không nhà. 

Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, lãnh đạo Hà Nội quyết định xây dựng công viên và đào hồ mới, đó là công viên Thanh Nhàn (nay là công viên Tuổi Trẻ), công viên Thủ Lệ, hồ Giảng Võ. Công viên Thủ Lệ hoàn thành vào năm 1978, còn Thanh Nhàn thì đến 2012 vẫn dang dở. Đến nay, tiếng là công viên cho thanh niên nhưng Thanh Nhàn chủ yếu là nơi hoạt động của nhà hàng, siêu thị và sân thể thao. Điểm vui chơi duy nhất có lẽ là sàn nhảy nhưng là chỗ cho kẻ có tiền...
Nguyễn Ngọc Tiến(Trích Đi dọc Hà Nội, Chibooks)
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 11: Rạp chiếu bóng ở Hà Nội xưa
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 10: Thực hư "Kẻ cắp chợ Đồng Xuân
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 9: Món trang sức của hồ Gươm
>> Hà Nội kỳ nhân, ký sự - Kỳ 8: Thân phận hoa loa kèn
>> Hà Nội kỳ nhân, ký sự - Kỳ 7: Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng...
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 6: Một chọi một lên cột đồng hồ
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 5: Vỉa hè có từ bao giờ?
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 4: Đào Nhật Tân có từ bao giờ ?
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 3: Thụy Chương nấu rượu là đà cả đêm
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 2: Răng đen, răng trắng và răng... tetracyline
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Ai xây tháp Rùa ?

Hà Nội đáng thương



Hà Nội đáng thương

Trần Chiến

Hà Nội từng vào trong thơ văn nhiều thế hệ văn nghệ, từ những người ở xa, những người sống cách nay đã lâu. Cảm xúc trìu mến, nhớ nhung hoặc thương sót thường là “chủ đạo”. Những dòng viết để đời ấy đem in ra khiến kẻ đẩu đâu muốn tìm về nếm náp, còn người tại chỗ thì tự hào.
Thành phố như một sinh thể phừng phừng, quá đa dạng, nên ấn tượng trong mỗi tác giả không giống nhau. Tuy thế, trong trí nhớ của tôi về những trang viết cách nay bẩy tám chục năm thì ẩm thực là “đầu vị” của nhiều người, và nó lại phản ánh ngay cái túi tiền của các vị. Một Tô Hoài có vẻ lầm lụi, thuộc nhiều nết ăn của dân ngoại ô, quà cho Nguyễn Bính có chiếc bánh giò. Thạch Lam thì không ai tinh nhã, sang trọng bằng, dù trước ông ít lâu có “me” nọ bắc bậc đến mức “ăn giò nhả bã”. Sau năm 1954, Nguyễn Tuân để lại phở, món “quà căn bản” và những lần đi uống rượu tây (đâu là uống “boóng”) ở khách sạn Metropole. Trong Nam, là tuyệt phẩm “Thương nhớ mười hai” của Vũ Bằng.
Đấy là trí nhớ, một tài sản ngày càng tồi tệ của con người ta. Nên chi chả nhắc đến nó nữa, mà bắc sang những trang sách đang có trước mặt, để điểm lại ấn tượng dân văn nghệ để lại từng thời khắc.
Nguyễn Huy Tưởng tự nhận mình là “nhà văn thiên về ca ngợi”. Nhưng năm 1956, trong bút ký (?) “Một ngày chủ nhật”, ông có những mô tả thật ngổn ngang: “Quần áo phần lớn màu tối, lạnh và khắc khổ, đồng loạt kiểu cán bộ. Hà Nội đã mất nhiều màu sắc. Gần mép hè, một cặp vợ chồng trẻ sánh vai nhau đi. Người phụ nữ có bộ mặt xinh tươi, bộ tóc uốn mềm mại, bộ áo dài cắt khéo. Sau một thời gian dè dặt, phụ nữ Hà Nội lại bắt đầu trang điểm. Nhưng họ vẫn chưa được tự nhiên lắm. Dù sao bộ áo của người phụ nữ trẻ kia cũng là màu tươi duy nhất trong đám người đồng phục trên quãng đường này”… “Nhưng hồ Gươm đã mất nhiều vẻ đẹp lắm rồi. Nước hồ gợn váng, ven đầy rác rưởi. Bờ không được sạch, lủng củng những quảng cáo vụng về, bầy vô tổ chức, những biển giới thiệu hình ảnh nước bạn, hầu như không ai săn sóc, vì mặt kính không mấy khi sạch xác ruồi muỗi. Có cảm tưởng hồ bị bưng kín và bé lại. Đường đi có nhiều chỗ lầy lội. Thùng rác như chiếc quan tài lù lù bên lối đi”… “Phố Tràng Tiền. Người chen chúc nhau đi lại. Nhiều cán bộ và công nhân viên hơn là người dân sản xuất bình thường tràn ngập các phố xá trong những ngày chủ nhật. Phản ánh cái tình trạng của một bộ máy quan liêu cồng kềnh chưa khắc phục được”.


Dự cảm đầu “ngày về” của Nguyễn Huy Tưởng rờn rợn những âu lo. Nguyễn Tuân thì “trực giác” hơn. Đâu như đang đi bộ, anh thanh niên nọ va vào rồi mở mồm xin lỗi, nhà văn cảm ơn lại “vì anh biết xin lỗi”. Giai thoại này chả biết chính xác đến đâu.
Cuộc chiến chống Pháp rồi chống Mỹ sau đó cuốn người ta đi theo mạch sống khẩn trương, khắc khổ. Khi dòng chẩy ấy “thỉnh thoảng” dừng lại, hình như Nguyễn Khải là người nhạy bén nhất trong các quan sát, so sánh. Truyện ngắn “Một người Hà Nội” của ông trở lui lại thời ta mới trở lại Thủ đô, với một bà cô. “Tôi nói: “Nước được độc lập vui quá cô nhỉ?”. Cô trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ”. Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống với nhau ra sao, trai gái phải yêu nhau thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở. Về sau tổ dân phố lại vận động không nên nuôi người ở? Nhà này trước đây có hai người ở, một anh bếp và một chị vú… Mỗi ngày chị đi chợ, đều có cán bộ bám theo, dò hỏi: “Chị có bị nhà chủ hành hạ không? Tiền công có được trả đều đặn không? Thái độ chính trị của họ là như thế nào?”. Chị vú gắt ầm lên: “Nếu họ không tử tế thì tôi đã xéo từ lâu rồi, không khiến anh phải xui”. Chị ta kể lại chuyện đó cho cả nhà nghe, bình luận: “Cách mạng gì toàn để ý những chuyện lặt vặt”.
“Một người Hà Nội” chuyển sang đoạn sau khi đất nước thống nhất, gia đình bà cô mở tiệc đoàn tụ. “Trong bữa tiệc hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về thành phố Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp nhã nhặn hơn người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều nín lặng… Tôi đã nói điều gì thất thố?”. Một đoạn khác, nhân vật “tôi” thấy Hà Nội đã sống lại phần xác, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn nghe họ buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường là đủ rõ. “Tôi đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, đạp chậm… Một ông bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào đít xe tôi, may mà gượng kịp. Tôi quay lại, nói cũng nhẹ nhàng: “Cậu đi đâu mà vội thế?”. Hắn không trả lời, đạp vượt qua rồi quay mặt lại “Tiên sư cái anh già!”. Lại một buổi sáng tôi đến thăm bạn…, lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ”.
*
Các già văn ấy mỗi người mỗi kiểu “phát biểu” về Hà Nội. Ông Tưởng âu lo, ông Tuân trực cảm, ông Khải kín kẽ sau nhân vật “tôi”. Dầu sao thì họ đã khuất núi cả, còn mỗi già Tô Hoài. Thế còn những người đang sung sức trên văn đàn hôm nay thì sao? Chẳng may, là tôi lại chơi với vài người có cảm giác rất nghiệt ngã. Nhà thơ Văn Công Hùng “mô tả” Hà Nội:
mùa thu trườn qua ngã tư
người xe người xe đông cứng
mùa thu tiếng còi như thét
em trùm mùa thu ninja

và bụi và nóng và trôi
mùa thu chết ngạt trên đường

Mà trước đấy, ông phó chủ tịch Hội Văn nghệ Gia Lai này đã từng viết, là “Hà Nội cho anh biết nhớ / mùa đông cồn cào rắc muối trong anh”
Phan Thị Vàng Anh sống nhiều nơi, chủ yếu phương Nam, và có thời “dính” đến Hà Nội. Trong tập “Gửi V.B” được giải thơ của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2007 của chị có câu:
Thốc đến tận tầng ba giọng nói người Hà Nội
để rồi
Hồ Gươm ngay dưới kia nay đã thành người lạ
“Thốc đến tận…” là cảm giác tức thì. Nhưng từng thân thuộc mà thành người lạ là chuyển sang chuyện buồn, một trạng thái ngấm ngầm, sâu xa hơn rồi. “Chuyện” ấy dần dà to ra. Gần đây, trong truyện ngắn có dáng dấp một tự sự “Hà Nội tháng 7 năm 2011”, Vàng Anh viết:
“Những người cả tuần mới phải ra phố một lần, những người một bước là lên ô tô, xuống ô tô có thể cười chị em Hà Nội mùa này trông giống nhau như tạc: váy ngắn hở đùi nhưng bên trên là áo chống nắng tùm hum, có mũ lụp xụp và manchette phủ dài qua hết hai bàn tay, mặt đeo khẩu trang, mắt đeo kính râm. Trông các chị, các cô rất xấu, nhưng có đi làm mỗi ngày mới hiểu được vì sao phải thế: nắng những năm này hình như có trộn cả hơi xăng, muội than, và da dẻ phấn son rồi không thể mỗi lúc mỗi rửa như thời còn để mặt mộc làm căn bản… Áo chống nắng mới cách đây một tuần đã tiến thêm một bước đi kèm váy chống nắng: quấn quanh thân dưới như xà rông, những chiếc váy này may bằng vải rẻ tiền càng làm cho thành phố thêm nhếch nhác. Cả thành phố như đầy những đống giẻ di động, bắt buộc và có lý…”.


Sau khi quan sát, mô tả, nhà văn sang đoạn sâu sắc hơn, nghĩ ngợi về căn cốt bên trong đô thị thủ đô:
 “Nếu như ở Sài Gòn có cảm giác cái gì cũng “ngoài” ta, xa ta, thì ở Hà Nội cảm giác cái gì cũng sát vào ta, cô đặc hơn: trời, cây, người, sự soi mói của con người, sự thân mật và du đãng của con người, tiếng người… cái gì cũng như “nước cốt” không ngừng làm ta ngạc nhiên và hơi sợ hãi vì nó quá gần ta.
Cái sự gần, sự sát ấy, nếu như mới cách đây khoảng năm năm còn là ở mức dễ chịu vì xe chưa đông lắm, người chưa đổ về lắm, thì đến năm nay đã trở nên khó chịu. Thứ nước cốt kia đã thành đậm đặc vì độ dày ken của tất cả mọi thứ, trở nên ngột ngạt mồ hôi người. Từng ấy sự soi mói được nhân lên, từng ấy giọng nói Hà Nội nhân lên, sự cau có ngọt ngào hay giả tạo cũng nhân lên… làm người phương xa như trúng nắng, xây xẩm. Muốn ra đường gặp một người quen thì phải cọ xát với cả tá người dưng, nhất là hẹn ở những phố trung tâm thì người dưng vừa đông, vừa vô hồn.
Vô hồn là phải, vì đám đông kia tuy sống nhờ Hà Nội, không muốn rời Hà Nội, nhưng Hà Nội chỉ là một phương tiện, không phải là nhà. Cứ nhìn những cuộc bia của hội đồng hương Nghệ An hay Thanh Hóa là hiểu: họ yêu quê họ biết bao nhiêu – nơi mà họ quyết tâm ra đi… Đó, ngày nay ta sống trong Hà Nội là sống với các hội đồng hương khổng lồ và ồn ã. Người Hà Nội gốc với những bà cụ áo phin nõn rót nước vối ủ cho ta uống, những ông cụ (luôn đi cùng các bà cụ kia) áo may ô tinh tươm mắt lấp lánh tủm tỉm cười… ngày càng vắng. Người Hà Nội cổ cũng như cà cuống đồng, biến đâu hết, thỉnh thoảng bắt được một bà / một ông / một con tưởng như bắt được linh hồn của một thời”.
Người Hà Nội hằng tự hào về truyền thống “thanh lịch”, “hội tụ, kết tinh, lan tỏa” của mình. Điều đó là có thật. Nhưng còn một sự thật khác, là tứ xứ đổ về đây khai thác, tận dụng, bòn rút thành phố. Xin không cắt nghĩa nguyên nhân (nông thôn đang trống toang), chỉ nói rằng nó làm thành phố luộm thuộm, tự phát, nhem nhếch hơn. Hai quá trình thành thị hóa nông thôn và nông thôn hóa thành thị cứ cuồn cuộn song hành. Trong gia đình “Hà Nội mới” trưởng giả, con cái hùng hục híp hóp chát chít trong khi ông bố chồm hỗm hai chân trên xô pha xỉa răng chanh chách.
Ai đấy sẽ bảo các nhà văn nhà thơ trên đời này ít lắm, những điều họ cảm thấy, nói ra trên đây chả ai nghe thấy đâu. Nhưng nhiều khi, rất nhiều khi, sự thật, chân lý không nằm trong đầu đám đông, mà lại do thiểu số ít ỏi nắm.
                                                            2012

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 19-10-12


(Vĩnh Thuận sưu tầm - Ngọc hà - 21/10/2012)
http://www.viet-studies.info/TranChien_HaNoiDangThuong.htm



Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2012

Hiện tượng Gangnam Style ở Hàn quốc



Tia sáng - 01:48-19/10/2012 

Gangnam Style: Đằng sau một hiện tượng

Hoàng Minh

PSY trong “Gangnam Style”
Video clip Gangnam Style của rapper người Hàn Quốc PSY đã trở thành một hiện tượng thực sự - sau ba tháng ra mắt, đã có hơn 400 triệu lượt người xem nó qua YouTube. Không phải ngẫu nhiên mà điệu nhảy mô phỏng động tác cưỡi ngựa của PSY được ưa thích ở khắp nơi. Lời ca và hình ảnh của bài hát này ẩn chứa những thông điệp mà có thể bạn chưa biết.



Gangnam Style là gì?

Gangnam trong tiếng Hàn nghĩa là “phía Nam dòng sông”. Gangnam là một quận của Seoul, nằm ở phía Nam sông Hàn.

Đầu thế kỷ 20, Gangnam thậm chí còn chẳng thuộc địa phận Seoul. Nhưng từ những năm 1970, chính sách phát triển của Hàn Quốc đã dần dần biến khu ngoại ô hẻo lánh này thành quận giàu có nhất xứ kim-chi.

Ngày nay, Gangnam được ví von là thung lũng Silicon, phố Wall, Beverly Hills, Manhattan, và Miami trộn lẫn vào nhau. Một so sánh khác, ít hoa mỹ hơn, nói rằng Gangnam là Dubai của Hàn Quốc, được dựng lên từ những ruộng bắp cải và vườn lê.

Đây là nơi tập trung tổng hành dinh của tất cả các chaebol Hàn Quốc – từ Samsung đến Hyundai - và trụ sở của những tập đoàn quốc tế hàng đầu như Apple, General Electric hay AT&T, là thiên đường của những khu nhà cao cấp nhất, những quán bar sành điệu nhất, v.v và v.v.

Không có gì ngạc nhiên khi rất nhiều chính khách và vô số ngôi sao giải trí của Hàn Quốc đang sống ở Gangnam. 

Cả quận này chỉ rộng có 7 dặm vuông (hơn 18 km2) nhưng chiếm tới 7% GDP của Hàn Quốc. Để dễ so sánh: Bang New York (cũng chiếm 7% GDP nước Mỹ) rộng gấp 3.000 lần Gangnam. 

Theo số liệu của Business Insider, 41% sinh viên đại học Seoul hiện nay xuất thân từ Gangnam. Điều này cũng giống như 41% sinh viên Harvard xuất thân từ khu Manhattan (New York).

Giá trị bất động sản của Gangnam cao hơn tổng giá trị bất động sản của Busan (thành phố lớn thứ hai Hàn Quốc) và nếu tính thêm cả hai quận lân cận là Seocho và Songpa (vốn cũng ở bờ Nam sông Han) thì giá trị bất động sản khu vực Gangnam chiếm tới 10% tổng giá trị bất động sản của cả Hàn Quốc.

Một nguồn số liệu khác cho biết chi phí cho giáo dục ở Gangnam cao gấp tám lần các khu vực lân cận của Seoul, lên tới 25 tỷ USD vào năm 2010, để đảm bảo con em các gia đình ở đó được học những trường tốt nhất. Cứ 25 trẻ em thì có một sẽ ra nước ngoài du học và khi trở về, dĩ nhiên, sẽ làm việc cho một tập đoàn lớn đóng ngay tại Gangnam.

Cứ như thế, Gangnam gần như trở thành một vương quốc khép kín của người giàu sống theo lối Âu-Mỹ và là niềm mơ ước của phần lớn người Hàn Quốc, đến mức họ nói rằng “phải sống ở Gangnam mới được coi là giàu.” 

Trào phúng kiểu PSY 

Lời bài hát có đoạn PSY nói rằng anh muốn tìm một cô gái “đẳng cấp”, người dám chi tiền cho một tách cà phê, còn anh sẽ là người đàn ông sành điệu, uống một hơi hết tách cà phê nóng.

Cà phê thì có liên quan gì ở đây? Jae Kim, một blogger gốc Hàn sống tại Mỹ, chủ trang My Dear Korea (chuyên viết về xứ sở kim-chi), giải thích rằng ở Hàn Quốc, người ta thường đùa rằng có những phụ nữ chỉ ăn bát mỳ giá 2.000 won (gần 40.000 đồng) để có tiền uống cà phê Starbuck giá gấp ba lần (cho ra vẻ sành điệu). 

Họ còn sáng tạo ra từ “quý bà/quý cô keo đậu tương” để cười nhạo những phụ nữ như vậy, những người phát cuồng vì mua sắm, thích vung tiền quá khả năng của mình. 

Cái “đẳng cấp” của cô gái rất tương xứng với sự “sành điệu” của PSY – không thể uống một hơi hết tách cà phê nóng mà không bị bỏng. Và đó là gợi ý quan trọng cho những ai muốn hiểu cái gọi là “phong cách Gangnam”.

Mặc dù PSY liên tục khoe “Oppa Gangnam Style” (anh có phong cách Gangnam) như để khẳng định anh (nhân vật trong video) là hiện thân cho “phong cách” này, nhưng những hình ảnh lần lượt xuất hiện lại khiến khán giả không thấy gì tốt đẹp ở Gangnam cả.

Ngay cảnh đầu tiên trong video clip, PSY đang nằm trên bãi biển và được một cô gái nóng bỏng quạt cho nhưng liền sau đó, sự thật được hé lộ: anh đang nằm trong một sân chơi trẻ em.

Một cảnh khác, PSY lại đi bên hai cô gái xinh đẹp trên thảm đỏ nhưng hóa ra họ đang ở trong một bãi đỗ xe và rồi rác bay như mưa, tiếp nữa là tuyết giả phun tứ tung vào ba người. 

Lối sống xa hoa của Gangnam bị PSY chế giễu trong suốt phần tiếp theo: cảnh tắm hơi với hai gã xã hội đen thay vì với những người thượng lưu, cảnh nhảy nhót trên xe du lịch với một nhóm người già về hưu thay vì vào hộp đêm, cảnh PSY bơi trong bể tắm công cộng thay vì một bể bơi hạng sang, hoặc cảnh anh ngồi oai vệ trên một… bệ hố xí.

Cứ như thế, PSY cười cợt những gì phần lớn người dân Hàn Quốc ngưỡng mộ ở Gangnam – anh chế giễu những kẻ giàu lên quá nhanh nhờ được hưởng lợi từ chính sách của chính phủ chứ không bằng sức lực bản thân, đả kích lối sống vật chất kiểu Mỹ và dường như cũng mỉa mai cả quê hương và bản thân mình (PSY là người Gangnam đúng nghĩa, anh sinh ra và lớn lên ở đó).

Cái giá của “phong cách”

Khi đoạn video có vẻ ngớ ngẩn được giải mã, người ta nhận ra rằng PSY không chỉ đùa cho vui mà có ý nhắc tới những vấn đề hệ trọng hơn rất nhiều, trong đó có tài chính cá nhân ở Hàn Quốc.

Như đoạn bài hát nói về chuyện uống cà phê, trên thực tế, người Hàn Quốc đang có xu hướng tiêu xài nhiều hơn mức họ có thể chi trả. 

Tờ Financial Times cho biết nợ hộ gia đình ở Hàn Quốc đã lên tới mức báo động: 155% thu nhập. Cần biết rằng con số này ở Mỹ vào thời kỳ trước khủng hoảng cho vay dưới chuẩn cũng chỉ là 138%.

Tờ Washington Post thì cho rằng nỗi ám ảnh về sự thành đạt khiến cho người dân nước này đua nhau mua xe xịn, túi xách hàng hiệu và trả hàng đống tiền cho gia sư để giúp con họ vào được những đại học hàng đầu.

Những điều đó thậm chí làm họ quên luôn bài học từ khủng hoảng tài chính năm 2002. Khi đó, kinh tế Hàn Quốc cũng chao đảo vì người dân tiêu pha vô độ mà không chi trả được - trung bình mỗi người Hàn Quốc có tới 5 thẻ tín dụng. 

Sau những nỗ lực giải cứu và ổn định tình hình của Chính phủ Hàn Quốc, số thẻ tín dụng trung bình của người dân đã giảm xuống còn khoảng 3 thẻ mỗi người nhưng hiện nay, con số này đã lại sát mức 5 thẻ. Hơn một năm nay, Hàn Quốc đã phải đưa thêm biện pháp để cảnh báo người dân về cách tiêu tiền của họ.

Sự giàu sang thịnh vượng của Gangnam nói riêng và Hàn Quốc nói chung không hoàn toàn là kết quả của tăng trưởng mà còn là sản phẩm của việc vay nợ và đương nhiên là nó đi kèm với rất nhiều nguy cơ.

Tóm lại, như tờ Business Insider kết luận trong một bài viết về Gangnam Style, thay vì vung tay quá trán, chúng ta nên học cách tiêu tiền khoa học hơn.

Và hãy nhớ lời tâm sự của PSY – “Xã hội loài người thật rỗng tuếch, và thậm chí cả lúc đang quay tôi cũng thấy mình thật thảm hại. Mỗi khung hình đều trống rỗng” – để nhớ cái giá của “phong cách Gangnam”. 


PSY hướng dẫn Chủ tịch điều hành Google Eric Schmidt nhảy Gangnam Style khi ông có mặt ở Seoul hồi cuối
tháng 9 vừa qua để ra mắt máy tính bảng Nexus 7.
Lúc này, cơn sốt Gangnam Style ở các nước phương Tây cũng đã ít nhiều thuyên giảm và người ta, sau khi bàn tán chán chê về ẩn ý sau những khung hình ngớ ngẩn một cách hài hước của chàng béo PSY, bắt đầu tranh luận xem việc “nhái” video clip này (được gọi là parody trong tiếng Anh) có phải là phạm pháp hay không.

Vấn đề này mới nghe thì có vẻ nực cười vì đã có luật quy định rõ ràng. Nhưng nó cho thấy Gangnam Style rõ ràng đang được “chế” lại với tốc độ chóng mặt. Nhiều trang tin và cả một số tờ báo có uy tín đã kịp lập bảng xếp hạng những phiên bản “nhái” hay nhất. Ngay cả những “tên tuổi” như Batman và vị phù thủy Gandalf trong series Chúa Nhẫn cũng nhảy điệu “cưỡi ngựa” của PSY.

Đến đây, chúng ta có thể hiểu tại sao Gangnam Style được yêu thích.

Nó ngớ ngẩn và hài hước theo một cách rất phương Tây, bối cảnh rất thân thuộc với người dân các nước phát triển (hầm đỗ xe, thang máy,…) và động tác đơn giản, dễ bắt chước. Tóm lại, ai cũng có thể tự “chế” một phiên bản Gangnam Style cho mình. Tất cả những yếu tố ấy giúp Gangnam Style nhanh chóng thành mốt.

Tất nhiên, không thể bỏ qua công lao của internet và mạng xã hội. Có lẽ chẳng ai biết Gangnam Style là gì cho đến một ngày thứ Ba đẹp trời, khi ca sĩ người Mỹ Katy Perry viết lên Twitter, “Help, I’m in a Gangman-style K-hole” [tạm dịch: “Giúp tôi với, tôi đang phát điên vì Gangnam Style” - ở đây ý nói là say sưa vì nghe Gangnam Style quá nhiều]. Thế rồi 25 triệu người theo dõi Perry google cụm từ “Gangnam style”.
Xem trên Yuotube:


Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012

Bản nhạc kỳ lạ trên băng ở hồ Baikal


  • 29/9/2012 06:00
  • http://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe-thong-tin-vien-thong/90561/ban-nhac-ky-la-tren-bang.html

Bản nhạc kỳ lạ trên băng

Những nhạc công người Nga đã thực hiện màn biểu diễn bản nhạc với những âm thanh kỳ lạ bằng bộ gõ hoàn toàn là băng tại hồ Baikal. 

Thanh Phong (tổng hợp)

http://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe-thong-tin-vien-thong/90561/ban-nhac-ky-la-tren-bang.html






(Vĩnh Thuận - 15/10/2012 sưu tầm)
http://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe-thong-tin-vien-thong/90561/ban-nhac-ky-la-tren-bang.html

Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2012

MẠC NGÔN nhận NOBEL VĂN HỌC 2012



Mạc Ngôn giành giải Nobel Văn học 2012 


Ngày đăng:   
http://www.vannghequandoi.com.vn/vi-VN/News/Su-kien/Mac-Ngon-gianh-giai-Nobel-Van-hoc-2012-147468-S.vnqd



Vượt qua ứng viên số một Haruki Murakami, tác giả "Cao lương đỏ", "Báu vật của đời" đã giành giải thưởng trị giá 8 triệu kronor (gần 25 tỷ đồng) cho giải Nobel về Văn học năm 2012. Giải thưởng đã được Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển công bố 18 giờ hôm nay, theo giờ Việt Nam.


Nhà văn Mạc Ngôn.

Mạc Ngôn sinh ngày 17/2/1955 tại thành phố Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc trong một gia đình nông dân. Ông được đánh giá là “một trong những nhà văn nổi tiếng, có ảnh hưởng sâu rộng tới tất cả nhà văn Trung Quốc”. Ông cũng được so sánh với những văn hào như Franz Kafka hay Joseph Heller. Thời kỳ Cách mạng văn hóa, ông làm việc trong một nhà máy sản xuất dầu. Mạc Ngôn tham gia quân đội ở tuổi 20 và bắt đầu viết khi ở trong quân ngũ vào năm 1981. Ba năm sau đó, Mạc Ngôn trở thành giảng viên Khoa Văn học của Học viện Văn hóa Quân đội. Bút danh của Mạc Ngôn trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là “không nói” được ông lấy khi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình. Ông chọn bút hiệu này để nhắc nhở bản thân mình kiệm lời...

Mạc Ngôn là tác giả khá gần gũi với độc giả Việt Nam. Phần lớn các tác phẩm của ông đều đã được dịch ra tiếng Việt. Trên thế giới, người ta biết đến ông nhiều nhờ tác phẩm "Cao Lương Đỏ" được đạo diễn Trương Nghê%3ḅ Mưu dựng thành phim.

Trong một lần trả lời phỏng vấn, Mạc Ngôn thừa nhận nhờ ngôn ngữ, ông đã được đổi đời từ nông dân trở thành một nhà văn, và nhờ các dịch giả trong và ngoài nước, ông trở thành một nhà văn nổi tiếng thế giới. 
Tác phẩm đầu tiên của Mạc Ngôn được dịch rộng rãi ra thế giới là tiểu thuyết "Cao lương đỏ" vào năm 1988. Sau này, cùng với "Báu vật của đời", "Tửu quốc"… là những tác phẩm đã được dịch ra hầu hết các ngôn ngữ chính ở châu Âu và châu Á như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Ý, Nhật… Mạc Ngôn cũng chia sẻ, ông gặp gỡ các độc giả nước ngoài phần lớn tại các cuộc họp báo giới thiệu tác phẩm, các buổi diễn thuyết hoặc ký tặng tác phẩm.

Poster phim "Cao lương đỏ" của đạo diễn Trương Nghệ Mưu 
chuyển thể từ tiểu thuyết của Mạc Ngôn.

Nói về các dịch giả đã dịch sách của mình, Mạc Ngôn cho rằng, “họ là những người quan trọng nhất”. “Một dịch giả xuất sắc không chỉ cần ngoại ngữ giỏi mà tiếng mẹ đẻ cũng phải giỏi. Tiếng mẹ đẻ có giỏi, họ mới truyền tải hết tinh thần trong các tác phẩm của tôi khi dịch sang tiếng nước khác”, ông cho biết.


Mạc Ngôn cũng là người chăm chỉ đọc sách và yêu thích rất nhiều các tác phẩm văn học nước ngoài, trong đó ông dành nhiều tình cảm của mình cho văn học Nga, chẳng hạn như “Chiến tranh và hòa bình”, “Tội ác và trừng phạt”, “Sông Đông êm đềm”…

Mạc Ngôn là nhà văn gốc Trung Quốc thứ hai (sau Cao Hành Kiện) và là người Châu Á thứ sáu giành giải Nobel Văn học.

Danh sách các tác giả, tác phẩm đã đạt giải Nobel Văn học từ năm 2000 đến nay:

NămTác giảQuốc giaTác phẩm tiêu biểuNgôn ngữ
2011Tomas Tranströmer Thụy ĐiểnWindows and Stones (1966), The Great Enigma (2004)Tiếng Thụy Điển
2010Mario Vargas Llosa PeruThe Time of The Hero, Conversation In The Cathedral, The War of the End of the World, The Feast of the GoatTiếng Tây Ban Nha
2009Herta Müller ĐứcNiederungen (1982), Herztier (1994), Heute wär ich mir lieber nicht begegnet (2001)Tiếng Đức
2008Jean-Marie Gustave Le Clézio PhápLe Procès-verbalDésertLe Chercheur d'orTiếng Pháp
2007Doris Lessing AnhThe Grass is Singing (1950), The Golden Notebook (1962), Memoirs of a Suvivor (1974)Tiếng Anh
2006Orhan Pamuk Thổ Nhĩ KỳTuyết (Kar, 2002), Tên tôi là Đỏ (Benim Adım Kırmızı, 1998)Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ
2005Harold Pinter AnhViết hai mươi chín vở kịch (tính đến năm 2005) và đạo diễn nhiều vở kịch khácTiếng Anh
2004Elfriede Jelinek ÁoTình ơi là tình (Die Liebhaberinnen, 1975), Cô gái chơi dương cầm (Die Klavierspielerin, 1983)Tiếng Đức
2003John Maxwell Coetzee Nam PhiDusklands (1974), The Life & Times of Michael K (1983), Disgrace (1999), Elizabeth Costello (2005)Tiếng Anh
2002Imre KertészHungarySorstalanság (1975), Kaddis a meg nem született gyermekért (1990)Tiếng Hungary
2001V.S. Naipaul AnhMiguel Street (1959), An Area of Darkness (1964), Guerillas (1975), The Enigma of Arrival (1987)Tiếng Anh
2000Cao Hành Kiện PhápLinh Sơn (1990 - 灵山 Linh Sơn)Tiếng Hán

PV




http://vtc.vn/13-351426/van-hoa/trung-quoc-lan-dau-doat-giai-nobel-van-hoc.htm

http://vtc.vn/13-351608/van-hoa/mac-ngon-giai-toa-mac-cam-nobel-cho-trung-quoc.htm

http://www.vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/dien-dan/5194-mac-ngon-no-viet-nam-mot-loi-xin-loi.html



Đồng chí Lý Trường Xuân gửi thư tới Hội Nhà văn Trung Quốc chúc mừng Nhà văn Mạc Ngôn giành Giải Nô-ben Văn học năm 2012

2012-10-12 16:56:27     Xin Hua
Ảnh: Nhà văn Mạc Ngôn giành được Giải Nô-ben Văn học năm 2012
Theo Tân Hoa xã: Ngày 11/10, đồng chí Lý Trường Xuân, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị đã gửi thư tới Hội Nhà văn Trung Quốc, chúc mừng nhà văn đương đại nổi tiếng Trung Quốc, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn giành được Giải Nô-ben Văn học năm 2012.Trong bức thư mừng, đồng chí Lý Trường Xuân viết, Nhà văn Mạc Ngôn giành Giải Nô-ben Văn học vừa là biểu hiện sự tiến bộ, phồn vinh của văn học Trung Quốc, cũng là biểu hiện về sức mạnh tổng hợp nhà nước và sức ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc không ngừng được nâng cao. Đồng chí mong đông đảo các nhà văn kiên trì định hướng sáng tác lấy nhân dân làm trung tâm, sát với thức tế, với cuộc sống và nhân dân, sáng tác ra càng nhiều tác phẩm ưu tú.

HỘI THẢO về VĂN CHƯƠNG NG. XUÂN KHÁNH



Tia Sáng - 11:59-12/10/2012 

Nguyễn Chí Hoan
Cái tên của cuốn trường thiên “Đội gạo lên chùa”1 khiến người ta nghĩ rằng nó hẳn được lấy ra từ câu ca dao quen thuộc “Ba cô đội gạo lên chùa/Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư....”, một câu ca dao tiềm ẩn cái biểu trưng về một hòn đá tảng của văn hóa xứ sở này xoay quanh hạt gạo và để mang cái của ngọc thực quý như sinh mạng ấy dâng cúng cho nguồn an ủi tinh thần sau những cánh cửa chùa.
 
Người ta lưu ý đến tính chất an ủi hơn chiều kích giải thoát, chẳng hạn như trong một câu độc thoại nội tâm đầy biểu cảm của nhân vật chính tên An: “Sự cao thượng của đức Phật từ bao đời nay đã thấm đẫm tâm hồn làng quê. Thiếu nó tâm hồn người ta sẽ bị què quặt...”(tr.651); và hơn nữa, như trong câu trả lời của nhân vật sư cụ tên Vô Úy cho An trong tư cách một nhà sư trẻ được gọi nhập ngũ những ngày kháng chiến chống Mỹ: “Con từ chối hay không tùy ở tâm con.Người chân tu không câu nệ chấp trước. Đức Trần Nhân Tông thời xưa, lúc nhỏ đã là một phật tử thuần thành, nhưng người vẫn làm vua, vẫn hai lần đánh thắng quân Nguyên, vẫn có gia đình có con cái. Chỉ khi đánh giặc xong, đất nước đã thanh bình người mới lên núi đi tu.” (tr.650) – ta thấy trong câu dạy dỗ chứa đựng quan điểm cốt lõi của một trong mấy nhân vật rường cột của cuốn trường thiên này, một quan điểm dường như diễn giải ý tưởng gọi là lạc-đạo-tùy-duyên, hàm ý là tinh thần của “Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân Tông, được trích làm đề từ ở đầu sách, quan điểm mà sự diễn đạt có thể đưa ra một trong những phiên bản khái lược cái diễn ngôn chi phối-kiến tạo toàn bộ câu chuyện được kể ở đây, mà tính chất an ủi hiện rõ ở cái kết trọn vẹn của truyện, và ở đoạn độc thoại nội tâm có tính thâu tóm triết lý truyện của nhân vật An khép lại cuốn sách: “Kiếp người chẳng qua như những con đom đóm. ... Nhưng dù sao cũng là ánh sáng.” (tr.866) – liên kết rõ rệt với một câu tương tự ở phần đầu truyện khi nhân vật An là đứa bé chín tuổi theo chị chạy vào “chùa Sọ” lánh nạn, được nhân vật sư Vô Úy cho phép xuống tóc, khiến An nghĩ: “Và chắc sư cụ muốn dùng ánh sáng của đức Phật để cứu vớt tôi, rửa sạch những vết u ám trong tâm hồn tôi chăng?” (tr.27)

Câu trích dẫn trên đây hẳn nhiên có dạng một câu hỏi tu từ; xét về nghĩa cũng như ý nghĩa thì nó thật trọn vẹn, chín chắn, cân xứng với sự biểu đạt ngôn từ thành văn của nó, lại có một giọng điệu hùng biện rõ ràng qua cách trưng từ vựng “ánh sáng của đức Phật”-“cứu vớt”-“rửa sạch”-“những vết u ám trong tâm hồn” – toàn bộ một hệ ý niệm trừu tượng với tính tôn giáo “thuần thành”, một lát cắt điển hình cho kiểu lời giáo huấn với văn phong cao (mà xem ra không khác gì về giọng điệu truyền ngôn so với câu hội thoại của nhân vật sư Vô Úy vừa trích ở trên), một thông báo hàm ngụ sự xác nhận thủ đắc chân lý về mặt kinh nghiệm cá nhân đối với những nội dung của thông báo đó (nhất là dưới dạng một độc thoại nội tâm), chỉ có điều, trong vai trò một chi tiết văn chương, khó có thể xem câu ấy là thích hợp với nguồn phát của nó, được mô tả là một cậu bé thôn quê tự nhận lúc ấy vẫn còn quá non nớt để hiểu những lời lẽ của sư cụ (tr.24-25), trên cái nền chung là phong cách truyện kể hiện thực theo trật tự thời gian; và ngay cả nếu xét lời kể này như được kể từ hồi tưởng, người kể đã sống trải, kể lại việc đã qua, thì một độc thoại nội tâm chín chắn như thế khi nhân vật độc thoại đang còn ở chặng đầu đời mờ mịt của anh ta vẫn là không thích hợp, không đúng, do đó là thừa, khi mà hàng loạt chi tiết xung quanh đã nói đủ về sự kiện cũng như ý nghĩa của sự kiện – một chú bé tị nạn được cho nhập tăng đoàn.

Vậy tại sao một câu như thế lại hiện diện trong trường đoạn truyện như thế, rõ ràng gây ra một độ chênh trong dòng diễn từ của truyện kể này với quy ước lối kể theo thời gian tuyến tính của truyện, độ chênh đồng đại-lịch đại trong một chi tiết mang tính chất tả thực về cái suy nghĩ của một nhân vật khi anh ta còn nhỏ ( nhắc đến hai lần “Đầu óc non nớt của tôi”, “Tôi còn quá non nớt để hiểu...” chỉ trong một trang ngay trước đó, tr.25) nhưng lại nghĩ ngợi rành rẽ như đã già dặn trưởng thành?

Ta hãy xem một thí dụ khác về kiểu hội thoại đặc trưng văn phong tác giả trong cuốn trường thiên này (và rộng ra, trong cả hai tác phẩm trước đó của cùng tác giả.)

Ở các trang từ 861 đến 863 có kể cuộc gặp lại của nhân vật An với nhân vật Đức vốn là một tù binh An được giao dẫn giải và đã để anh ta trốn thoát trong chuỗi sự kiện được thuật riêng hẳn một chương có tên là “Gặp gỡ” – hai người lính hai bên chiến tuyến nhận nhau như đồng môn vì nhân vật Đức kể anh ta trước có người thầy hướng dẫn là một thượng tọa chùa Vĩnh Nghiêm, còn nhân vật An bảo “sư tổ thầy tôi” vốn cũng xuất thân từ chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang... (tr.841)

Giờ đây nhân vật Đức được kể là từ nước Mỹ về thăm Việt Nam cốt tìm gặp người lính đối phương trong chiến cuộc đã để xổng cho mình thoát. Nhân vật Đức bảo vì họ là hai đạo hữu với nhau, “Tôi có lỗi với ông. Tôi đến xin ông một lời tha lỗi.”(tr.862) Và cái lỗi ấy, nhân vật Đức kể, xảy ra trong đêm anh ta đào tẩu khi An đang ngủ; anh ta chợt sa vào một cơn thù hận, rút một thanh củi cháy dở trong đống lửa tính đâm vào mặt nhân vật An và “Chính lúc ấy, tôi nghe thấy một tiếng động đánh xoạt một cái phía sau lưng. Tôi quay phắt đầu lại, nhìn thấy sau bụi rậm có hai con mắt đỏ lừ. Chẳng biết hươu nai hay hổ báo. Chỉ biết rằng hai con mắt đỏ ấy đã làm cho đầu óc tôi bừng tỉnh. Ông vẫn còn ngủ, còn tôi lầm lũi bỏ đi.” (tr.863)

Tôi nhấn mạnh câu cuối trong đoạn hội thoại trên bởi từ láy lầm lũi gây một độ biểu cảm khiến câu này lệch khỏi đoạn trần thuật: nhân vật Đức dẫu mang tâm thế người có lỗi cũng không thể trơn tru hồi cố mà tự mô tả mình rằng còn tôi lầm lũi bỏ đi; những mô tả sử dụng loại biểu cảm này thường có điểm nhìn bên ngoài đối tượng mô tả, và thường là một lối tu từ để nhấn mạnh ấn tượng cảm giác của người quan sát, thuần chữ nghĩa và có xu hướng khoa đại; trong câu trích trên đây nó khiến sự ăn năn của nhân vật này mang một sắc thái hùng biện, và do đó, dạy dỗ.

Phù hợp hơn, câu này từ miệng nhân vật Đức nếu nó được trình hiện như một độc thoại nội tâm; và nếu như vậy, nó sẽ rơi vào tương tự tình thế của câu độc thoại nội tâm đã dẫn ở đoạn trên từ miệng nhân vật An – độ chênh lịch đại trong dòng tự sự bị xóa nhòa, hậu quả là tâm lý nhân vật không có biểu thị vận động nào để ghi dấu sự biến chuyển giữa phút “bừng tỉnh” ngày xưa với cái nhìn hối lỗi bây giờ, một độ lệch theo logic hình thức, ít ra về mặt ngữ dụng trong việc một nhân vật như thế tự nói về mình.

Nhưng câu hỏi như đã đặt ra ở trên: tại sao những câu văn như thế vẫn đứng trong các đoạn hội thoại hay độc thoại như thế của truyện này mà dường như vẫn không gây trở ngại?
Là bởi, trước hết, chúng đã ngay từ trang đầu hòa vào dòng trần thuật của lời kể - cùng một phong cách văn ngôn như nhau ở đây được triển khai chung cho tất cả các trình thuật kể/tả/đối thoại/độc thoại/ hồi cố/dự báo, chung cho tất cả các vai, giống nhau dù ở những đoạn huyền hoặc giai thoại hay những đoạn hiện thực tính đậm; toàn bộ là một lối viết tu từ trau chuốt đúng mực, đôi khi bay bướm, thường hùng hồn, rất thường có xu hướng nhằm gây cảm động; những phẩm chất đó không phải là trung tính, không phải vì nó là văn chương thuần túy v.v.

Lý do tiếp đến, như một hệ quả từ điều trên, nằm ở tính đăng đối hoàn toàn có thể thấy rõ trong mấy thí dụ trích dẫn vừa nêu, đặc biệt trong giọng điệu những câu như thế, một tính đăng đối như là hình bóng và thuộc về truyền thống đăng đối của loại văn “dĩ tải đạo”, tức là một lối viết do diễn ngôn của “đạo” chi phối-kiến tạo.
Yếu tố nhịp nhàng đều đặn toát ra từ tổng thể cũng như từ mỗi tình tiết của văn bản-truyện bởi lối hành văn trau chuốt, và cái tính nhịp điệu đó có cái sức ám thị của hình thức và sự cân đối – bằng vào đó, nó ngấm ngầm mặc định tính chất tiên nghiệm cái diễn ngôn đã kiến tạo lối viết, tính chất tiên nghiệm của “đạo”.

Bởi thế mà các nhân vật luôn nói năng như giảng thuyết và không có giọng điệu cá tính, tức không có cái được gọi như ngôn ngữ nhân vật, thay vào đó chỉ có sự ước lệ của lời kể dưới dạng hội thoại và độc thoại – cái lời kể mang hình bóng của diễn ngôn chi phối, là một phiên bản tái tạo mang tính tâm lý của cái diễn ngôn đó.

Câu chuyện trong sách này chứa đựng một lược đồ thoái biến trước hết biểu thị qua những đường viền đứt nối cái hình bóng mờ tỏ của một Câu-chuyện-lớn vốn đã chi phối thang thời-gian-lịch-sử, tạo thành cả một kỷ nguyên vừa qua: đó có thể là thực tại khách quan, nhưng vấn đề là truyện đã dùng cái thang ấy làm xương sống cho cuộc đời nhân vật chính – xuất hiện như một nạn nhân nhỏ tuổi từ một trận càn quét của quân Pháp, nhân vật An đi qua chứng kiến tham dự và liên đới vào suốt các biến động lớn của lịch sử đã biết cho đến chỗ thành một anh bộ đội phục viên vui sống điền viên làm “kinh tế vườn-đồi”; tuy nhiên, cái đã kiến tạo ý nghĩa cuộc đời cho nhân vật chính này lại từ một thang thời gian khác tính từ một điểm tái cấu trúc là câu chuyện về nhân vật thiền sư Vô Úy (từ tr.240 đến tr.265), trong đó có chuyện về sư tổ trước đó là nhân vật sư Vô Chấp, mà qua một câu của nhân vật sư Vô Úy đã dẫn ở trên, ta thấy cái thang lịch sử này kéo ngược lên đến “đức Trần Nhân Tông” và xa hơn nữa bởi cái “đạo” của ngài; thang lịch sử này chứa đựng thang lịch sử kia, và tính thoái biến biểu thị trên cái thang lớn hơn về thời gian lịch sử khiến ta liên tưởng đến thuyết phân kỳ về “thời Mạt Pháp”: thoái biến được minh họa rõ rệt, bởi nhân vật thiền sư Vô Úy được kể là con trai một nhà khoa bảng, dân Hà Nội, tinh thông cả Hán học và Tây học, đến khi nhập tu thì nhập tâm tinh thông kinh sách hơn người – tức một nhân vật biểu tượng văn hóa xuất chúng của thời đại chứa đựng cả Nho-Pháp-Phật; truyện có vẻ hàm ý nhân vật này như một kiếp đầu thai của một bậc thầy nào đấy; song con đường của tăng thống này đã đứt đoạn ở nhân vật An, vốn được sư Vô Úy nhận cho xuống tóc đi theo vì thấy thằng bé sáng láng đĩnh ngộ, tức có thể đào luyện thành người để truyền y bát; nhưng, như đã kể trong truyện, học trò trước An của sư Vô Úy là Vô Trần đã bị một cô “đội gạo lên chùa” làm cho hoàn tục, sau thành một chính ủy quân đội v.v., còn nhân vật An thì đã không thành một thiền sư họ Vô kế tiếp, chỉ là một cư sĩ về già sau khi nhân vật thiền sư Vô Úy đã mất.

Điều này dường như đã được báo trước trong đoạn kể về nhân vật sư Vô Chấp giảng về luân hồi và nghiệp (tr.253), một đoạn thuyết giảng thấu đáo song toát lên ý vị buồn bã của sự an ủi và chấp nhận, cũng như trong lời ông răn rằng lòng từ bi thực rất mạnh, người ta phải có sự dũng mãnh và kiên quyết mới thực hành được chữ “nhẫn” của Phật gia (tr.256) – xuyên suốt những lời ấy lạ thay ta khó thấy cái kỳ vọng về giác ngộ; và đằng sau niềm an ủi về tính đúng đắn đạo lý đã được bảo chứng truyền đời thì lại chính là những chìm nổi “tùy duyên” của cái được xem như số phận.

Cả một Câu-chuyện-lớn với thang thời gian lịch sử đặc định của nó, cái đã dẫn đưa cuộc đời nhân vật An đến chỗ không thành một họ Vô kế tục, dường như chỉ để minh họa cho khái niệm “tùy duyên” đó.

Có lẽ vì thế mà không thấy được ngôn ngữ nhân vật trong cuốn trường thiên này.
Và cũng như trong những văn bản tôn giáo truyền thống, việc và người trần gian luôn chỉ là những bóng hình, dẫu có sinh động, của một quá khứ xa xăm và của một tương lai còn xa xăm hơn.

Những lời thuyết giảng trực tiếp hay gián tiếp từ miệng các nhân vật trong truyện này tái tạo một phiên bản cái diễn ngôn gốc đã chi phối nó, thành hình nên nó, và, vẫn như xưa nay, tái tạo cũng như/hoặc lặp lại là một phương cách để an ủi, như lời nhân vật An ở cuối sách nói kiếp người như con đom đóm với chút ánh sáng bé nhỏ yếu ớt “Nhưng dù sao cũng là ánh sáng.”


-----------------------------------------------

* Tham luận tại tọa đàm Lịch sử và văn hóa qua tự sự nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh do Viện Văn học tổ chức (Thứ Hai ngày 15/10/2012 tại Viện Văn học, Hà Nội)

1 Nguyễn Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ, 2011

-----------------------------------------------