GẶP THƠ LÊ ĐẠT MỘT THỜI
Hà Nhật
- 13 November, 2012 20:30
- http://ngominh.vnweblogs.com/post/2246/390258

Nhà thơ Lê Đạt (1929-2008)
Phải rất lâu sau Hà Nội giải phóng (1954) tôi mới bắt đầu biết đến thơ Lê Đạt. Là học sinh vùng địch tạm chiếm, tôi chỉ biết thơ Kháng chiến có Tố Hữu, rồi Hoàng Cầm, Hữu (tức Hữu Loan), Quang Dũng…
Những bài thơ đầu tiên đọc được của Lê Đạt đã chẳng gây ấn tượng gì lắm cho tôi. Đến khi đọc mấy bài của Lê Đạt trên Giai phẩm mùa xuân 1956 với những câu thơ đại khái như xã hội chủ nghĩa không thể vác ba lô đi bộ, tôi chỉ thấy hơi lạ mà không cảm thấy thích. “Lạ” là rất cần, nhưng chưa phải là tiêu chí số một của thơ. Nói như Nguyễn Văn Siêu, thơ trước hết phải làm xúc động lòng người.
Thế rồi, đùng một cái, báo Văn Nghệ đăng bài thơ Cha tôi của Lê Đạt. Cả giới làm thơ, trẻ như già, rúng động. Nhìn chung thì kết cấu của bài thơ không có gì lạ so với những bài thơ ngày đó : nhìn về quá khứ, nhận ra quá khứ buồn đau để cảm thấy mình thật may mắn hơn thế hệ cha ông. Kiểu thơ này, đọc tập thơ nào, bài thơ nào trên bất cứ tờ báo nào lúc này mà chẳng thấy. Nhưng với kết cấu ấy, Lê Đạt trong Cha tôi, có những câu thơ chưa từng có, những câu thơ như từ gan ruột người ta mà ra, những câu thơ như từ trải nghiệm đau đớn của cuộc đời mà ra. Lâu lắm người đọc thơ Việt Nam mới được đọc một bài thơ như thế. Trải qua hơn nửa thế kỷ, tôi chỉ còn nhớ một số câu thơ. Chẳng hạn như những câu mở đầu :
Cha tôi
Đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng quen nghề võ
Những câu thơ nói về cái hăm hở của chàng trai mới vào đời, sang sảng ngâm lên những câu Kiều của Nguyễn Du như chính là chí khí của mình :
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì
Những câu nói về một thế hệ thanh niên Việt Nam :
Khóc Phan Châu Trinh như khóc người nhà mình
Rồi đến những câu thơ nói về cái bất đắc chí của con người sinh bất phùng thời, sau chứng kiến thất bại liên tiếp của các phong trào cứu nước, biết mình không thể làm để thắng nổi những oan trái trong đời, đành chấp nhận sống chung với nó nhưng không công nhận nó :
Ngâm một câu Kiều
Ôm mặt khóc
Cho đến khi sự chấp nhận đã trở thành thói quen, con người ta cam chịu với nỗi nhục phải sống, “càng sống càng tồi”, con người ta trở nên hèn đi, sống mà chỉ như cỏ cây, không phải là sống. Hình ảnh người cha lúc này thật là tội nghiệp :
Hai vai nhô lên
đầu lún xuống
Như không mang nổi cuộc đời
Bóng in tường vôi
Im lặng
Bóng với người như nhau
Đến những câu thơ này thì cực hay :
Mùi ẩm mốc tiếng mọt kêu cọt kẹt
Ở chân bàn hay ở cả cha tôi ?
Có lẽ đọc hết một tập Sống mòn (chính xác là Chết mòn), một truyện Đời thừa của Nam Cao, nỗi cay đắng cũng chỉ đến thế thôi.
Có thể nói, với Cha tôi, Lê Đạt mới thực sự đươc mọi người coi là nhà thơ, nhà thơ của mình, nhà thơ của thời đại. Ngay năm đó, Cha tôi được đưa vào sách giáo khoa Giảng văn lớp 10, lớp cuối cùng của nhà trường trung học ở miền Bắc. Mọi người coi đó như một điều hoàn toàn tự nhiên. Tôi nhớ, vào năm ấy, không ít nhà thơ đã lấy thơ Cha tôi làm như cái chuẩn để mà khen chê thơ hay thơ dở. Cũng trong năm đó, một trong những cái tội của giáo sư Trương Tửu là dám từ trên bục giảng đường Khoa Văn của trường Đại học Việt Nam cho rằng “đem đặt bên cạnh bài thơ Cha tôi của Lê Đạt thì cả tập thơ Việt Bắc chẳng là gì cả”. Nên nhớ rằng Việt Bắc vừa được trao giải nhất về thơ trong giải thưởng của Hội Văn Nghệ Việt Nam cho hai năm 1954-1955. Cũng nên nhớ rằng giáo sư Trương Tửu là vị giáo sư duy nhất ở Việt Nam không có bằng cấp nào cả nhưng là thần tượng của mấy thế hệ sinh viên văn khoa và mỗi lời của thầy nói ra thì đều như mang theo một thứ ma lực huyền bí, không thể cưỡng lại được. Thầy Trương Tửu có cái tật mà sinh viên nào cũng biết là khi đã khen ai thì không tiếc lời, mà lời của thầy thì toàn là “lời có cánh”. Chẳng hạn thầy khen thơ Hồ Xuân Hương là “nếu đem những câu thơ ấy mà vắt, tưởng như nhìn thấy chất sống chảy ra ròng ròng…”.
Lê Đạt với Cha tôi, thế là hầu như trong giới làm thơ và yêu thơ, ai cũng biết. Tuy nhiên, đó chỉ mới là khúc dạo đầu cho một chặng mới của Lê Đạt.
Cứ như một chuyện lừng lững từ trên trời rơi xuống, tờ báo Nhân Văn số 1 được rao bán trên các nẻo phố Hà Nội vào một buổi sáng kia. Đi đâu cũng thấy có người mua báo Nhân Văn, đọc báo Nhân Văn. Mà tờ báo Nhân Văn thì ngay trang đầu là bài thơ của Lê Đạt : Nhân câu chuyện mấy người tự tử.
Thơ gì mà quái lạ thế này ? In ở trang 1, lại còn “xem tiếp trang 2”. Thơ không có vần, lại còn “leo thang” lên xuống gập ghềnh. Thơ mà lại còn có “tái bút” nữa ! Thế nhưng người đọc ngày hôm ấy có quan tâm gì đến chuyện đó đâu. Có thể nói trong lịch sử thơ Việt Nam xưa nay, chưa có bài thơ nào làm choáng váng người đọc với một số lượng đông đảo đến như vậy. Tôi đem chuyện này kể với anh Nguyễn Bính, lúc này là chủ bút báo Trăm hoa. Anh Bính bảo :
- Thì bởi vì đây là tiếng chuông cứu khổ mà lại!
Quả thật, hình như lúc này mọi quy tắc về thơ (ấy là nói thơ theo quan niệm như cho đến lúc bấy giờ người ta vẫn nghĩ) đều bị bỏ qua hết. Lê Đạt bắt đầu cứ như người ngồi kể chuyện vặt, một câu chuyện tò mò :
Báo nhân dân số 822
Có đăng tin mấy người tự tử
Vì câu chuyện tình duyên dang dở
Trưa mùa hè nóng nung như lửa
Tôi ngồi làm thơ
Vừa giận vừa thương những người xấu số
Chân chưa đi hết đường đời
Đã vội nằm dưới mộ.
Tiếp theo là những câu thơ rất trữ tình :
Chết là hết
Hết đau hết khổ
Nhưng cũng là hết vầng trăng soi sáng trên đầu
Hết những bàn tay e ấp tìm nhau
Lê Đạt hình dung ra cái cảnh đôi trai gái yêu nhau trước khi họ tìm đến cái chết :
Người con trai ngồi trên gò đất
Thổi sáo gọi người yêu
Bắt nắng chiều đứng lại
Lúa đang thì con gái…
Xôn xao gió thổi
Đầu sát bên đầu tính chuyện tương lai
Quả là những câu thơ đẹp một vẻ đẹp hiền lành kể về một mối tình đẹp nhưng bình thường của một chàng trai quê với một cô gái quê. Nếu chỉ xét về nội dung, chuyện này chẳng có gì khác lắm câu chuyện Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài mà người Hà Nội và người miền Bắc hồi đó ai cũng biết. Bởi có một bộ phim Trung Quốc đang chiếu và một vở cải lương đang diễn ở các rạp Kim Chung, Kim Phụng ! Tuy nhiên, đó chỉ là những tia khói báo hiệu cho một sự bùng nổ.
Bởi Lê Đạt không quy trách nhiệm cho một Chúc ông, Chúc bà nào đó làm chuyện “rẽ thúy chia uyên”. Lê Đạt viết những câu thơ chỉ có thể là thơ của Lê Đạt :
Anh công an nơi ngã tư đường phố
Chỉ đường cho
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho luật giao thông
Nhưng đem bục công an đặt giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo luật lệ đi đường nhà nước
Có thể gây nhiều đau xót
ngoài đời
Mọi sự cứ là nổ bùng lên. Đây đâu còn là chuyện của mấy người tự tử, đây là chuyện của cuộc sống đang diễn ra, chuyện của hàng triệu con người. Không chỉ là chuyện yêu nhau, mà là chuyện cơm áo, chuyện số phận con người. Cho đến bao nhiêu năm sau, những câu thơ ấy vẫn còn được nhiều người nhắc tới hoặc đọc lên. Thì ra Lê Đạt không làm thơ về mấy người tự tử, mà chỉ là nhân câu chuyện mấy người tự tử !
Sau này, đến lúc phản kích, những người tham gia cuộc phản kích phát hiện ra rằng trong bài thơ của mình, Lê Đạt đã dùng một biện pháp nghệ thuật khôn khéo có tên là symbole équivoque (hình tượng hai mặt). Sự phát hiện này đã trở thành một thói quen, một phương hướng quan trọng cho việc xem xét và đánh giá tác phẩm thơ suốt từ đó đến mãi tận bây giờ. Thơ Lê Đạt, thơ Trần Dần là équivoque, Lời mẹ dặn của Phùng Quán là équivoque, nhiều bài thơ có thể équivoque ! Symbole équivoque, ôi, con ngoáo ộp đã treo lơ lửng lên số phận bao nhiêu bài thơ, bao nhiêu người làm thơ. Thơ mà thẳng đuột như ruột ngựa thì mang tiếng là thơ thiếu chiều sâu, thơ không để lại dư vị cho người đọc phải ngẫm nghĩ, nhưng thơ mà có hai nghĩa thì bị quy là équivoque, là thâm hiểm. (Có điều rất đáng nói là cùng lúc đánh phá những bài thơ équivoque như thế, người ta lại không tiếc lời khen những bài thơ hai nghĩa của Hồ Xuân Hương là “có tác dụng chống lễ giáo phong kiến” !
Quả thật, chỉ với riêng một đoạn thơ có cái “bục công an” nói trên, bài thơ của Lê Đạt đã buộc người ta phải đọc và phải nhớ, đây không chỉ vậy, hết bài thơ còn một phần “tái bút” cũng dài ngang một bài thơ, trong đó có những đoạn như đoạn này :
Ngày Phật Đản vừa qua được nghỉ
Tôi với Văn Cao rủ nhau đi ăn thịt chó
Văn Cao vốn là người nể vợ
Mua thêm một gói về nhà
Tôi bỗng giật mình (nhưng không dám nói ra)
Người chủ lấy thơ tôi gói thịt !
Ngay khi ấy tôi chỉ còn muốn chết
Như dại như điên tôi oán đất oán trời
Nhưng hôm nay tôi chỉ oán mình tôi
Thơ tôi bị người đời ruồng bỏ
Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ
Vẽ phấn bôi son tô toàn màu đỏ
La liệt đầy đường hoa nở chim kêu
Thế là Lê Đạt đã tranh thủ tấn công vào một xu hướng thịnh hành, có thể nói là xu hướng chủ đạo, của văn học (mà cả các bộ môn nghệ thuật khác cũng vậy) nước ta thời ấy : xu hướng tô hồng, hay nói cho chính xác, xu hướng gọi là lãng mạn cách mạng, tiêu chuẩn quan trọng nhất trong một tác phẩm được coi là có giá trị hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tội to quá. Bị đánh là phải.
Được 5 số thì báo Nhân Văn chết đứ đừ. Cũng từ đây, từ nhân văn được coi như đồng nghĩa với phản động. Còn từ giai phẩm thì hầu như không còn ai dùng đến. Tuy nhiên, hình như vào khoảng đầu hoặc giữa năm 1957 gì đó, Lê Đạt còn viết một bài thơ dài với cái tên ngộ nghĩnh : Cửa hàng Lê Đạt. Bài thơ chỉ được đánh máy chứ không in ở báo nào. Đa số người đọc biết Lê Đạt có bài thơ này là nhờ có một bài của Xuân Diệu đánh tơi bời trên tờ Tạp chí Văn Nghệ. Mùa hè 1958, Lê Đạt còn in được một tập Bài thơ trên ghế đá, mà Lê Đạt gọi là thơ về những thứ vulgaire (thông tục, tầm thường, không có gì thi vị) ở đời. Có điều là tập thơ được in nhưng không được phát hành.
Mùa thu 1958, với một cuộc chính huấn đại quy mô, “bọn nhân văn – giai phẩm ra trước tòa án dư luận”. Mọi chuyện thế là chấm dứt một cách êm thấm, có thể nói là tốt đẹp. Sau cuộc chỉnh huấn là một đợt “đi thực tế” dài. Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn. Còn ở trường Đại học, những cây đa cây đề bị bật gốc : Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh…
Tôi còn nhớ như in một buổi chiều, sau giờ lên lớp, thầy Phan Ngọc, một giảng viên quê xứ Nghệ, dạy chúng tôi môn Ngôn ngữ học đại cương, nói với lớp bằng giọng nhỏ nhẹ :
- Bắt đầu từ hôm nay, tôi được trường cho nghỉ dạy để viết tự kiểm thảo.
Thế là một mạch. Dẫu sao còn được nói mấy lời từ biệt. Còn các vị giáo sư nói trên thì chẳng nói năng được gì. Mãi mãi không ai biết trường Đại học Việt Nam có một vị giáo sư khi mới 24 tuổi đã đỗ hai bằng tiến sĩ tại Đại học Sorbonne danh giá của nước Pháp, một nhà triết học từng tranh luận với Jean Paul Sartre ở Paris, một nhà sử học có trí nhớ thông kim bác cổ, một vị giáo sư có lối giảng bài như lấy kiến thức ra từ từng ngăn kéo và hút hết hồn vía người ta. May lắm, sau này hình như có người biết ở Phố Hàng Gà Hà Nội có một ông thầy châm cứu giỏi vào loại siêu, hình như ông ấy nguyên là một giáo sư Văn học nổi tiếng…
Từ năm học 1958-1959, bọn chúng tôi lên học tận Cầu Giấy, cách Hà Nội 12 km, giữa một vùng đồng không mông quạnh, phía bên kia đường là làng Vòng làm cốm, cách về phía tây một đoạn nghĩa trang Mai Dịch, nơi chúng tôi thỉnh thoảng đến lao động. Hầu như với toàn thầy mới toanh. Mỗi tuần, mong như mong mẹ về chợ, đến chiều thứ bảy, Ký túc xá Cầu Giấy mở cửa, lũ sinh viên chúng tôi, hoặc đạp xe, hoặc đi bộ, ù về Hà Nội một ngày, để tối hôm sau, trước lúc 9 giờ, phải có mặt tại phòng ngủ.
Mỗi lần về Hà Nội, không hiểu sao cứ thấy buồn vô cùng. Hầu như chủ nhật nào tôi cũng ghé qua nhà Lê Đạt rồi nhà Trần Dần, chẳng để làm gì, chẳng giúp ích được gì, chỉ để gặp chị Thúy (vợ anh Đạt), chị Khoa (vợ anh Dần), biết rằng hai chị vẫn yên ổn, hai cháu bé, cháu Nhiên và cháu Kha vẫn chơi.
Sài Gòn , tháng 2 – 2008
Tái bút:
Những câu thơ của Lê Đạt dẫn trong bài người viết trích theo trí nhớ. Có gì sai sót mong nhà thơ thông cảm vì đã hơn 50 năm rồi…HN
Nguồn 2: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=5866
-------------------------------------------
02 November, 2012 21:04
http://ngominh.vnweblogs.com/post/2246/388448
CHUYỆN THẦY HÀ NHẬT LÀM THƠ

Hà Nhật, Bùi Xuân Phái ký họa
Ngô Minh
Tôi gọi là “thầy” vì thầy Lương Duy Cán ( Hà Nhật ) dạy văn tôi hồi nhỏ học cấp 3 ở trường huyện . Tôi viết Chuyện thầy Hà Nhật làm thơ vì thầy vừa ra mắt tập thơ đầu tay Đá sỏi trên đường (*) khi thầy đã U80. Thầy mà một thi sĩ từ trong máu thịt, thi sĩ từ lúc trẻ cho đến bây giờ, nhưng lại không có tên trong danh sách Hội Nhà văn. Đó là một điều lạ, trong lúc rất nhiều người thơ phú làng nhang, thậm chí vớ vẩn, vẫn chạy chọt để vào Hội. Hà Nhật là một nhà thơ có tiếng từ những năm 60 của thế kỷ XX, sao lại chỉ có 51 bài thơ trong Đá sỏi trên đường ? Câu chuyện dài lắm, nó như là một phong cách thi sĩ.
Tôi thấy thầy Hà Nhật suốt thời trai trẻ luôn lãng đãng thơ, lãng đãng em . Làm xong bài thơ, đọc bên chiếu rượu rồi tặng người đẹp là coi như mãn nguyện, không hề biết lưu giữ để in thành tập,để xin vào hội này hội khác... Nhưng nhắc đến thơ Hà Nhật, trăm nhà thơ có tên tuổi đều yêu mến, nể trọng. Bởi thơ Hà Nhật vừa đam mê nồng cháy, vừa trí tuệ. Quê cũ nghèo không lúa không khoai / Chỉ có trời xanh và muối mặn (“Muối”). Gặp nhau bây giờ / Táo trong vườn rụng hết / Thôi đừng nhắc nữa / Cho lòng đau / Nghe em (“Táo”). Tình anh như muối kia / Mặn mòi và lặng lẽ / Muối trăm đời vẫn thế / Tình anh không có màu (“Tình muối”). Năm 2007, viết ở đến thờ An Dương Vương ở Nghệ An trong chuyện ra thăm lại nơi mình từng dạy học xưa, Hà Nhật vẫn giữ được sự chất chứa ấy: Đền Cuông - cuông bay hết / Về chi nữa em ơi / Cha già còn ngoảnh mặt / Mong gì đời sửa sai ! (“Đền Cuông”)… Hay : Anh bơ vơ giữa cuộc đời phù du / Chỉ có em thôi / Chỉ có em là thật... ( Bão số 2, 2007).
Thầy Hà Nhật được gia đình ở Bảo Ninh, ( Đồng Hới) gửi vào Huế học trường Khải Định ( trường Quốc học bây giờ) từ năm 1953. Hồi ấy mới mười bảy tuổi đã yêu, đã thơ “có nghề” lắm: Trên đồi sim/... Chiều tàn lịm/ Tàn cả trong tim / ...Tiếc tình xưa tan võ / Như những cánh sim bay (Trên đồi sim, Đá sỏi trên đường ). Sau Hiệp định Genève, Hà Nhật phải rời trường Khải Định, ra Hà Nội học tiếp Đệ nhị và đỗ tú tài toán năm 1956. Học giỏi toán nhưng lại xin thi vào sư phạm Văn. Hồi sinh viên học Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nhật thường chơi thân với các nhà thơ, nhà văn cùng trang lứa như Phùng Quán, Nguyễn Bùi Vợi, Vân Long, Băng Sơn, Thúc Hà …Lại bù khú rượu thơ bên các người đẹp, ngất ngư năm tháng. Yêu rồi, tặng thơ cho “nàng: rồi thì thấy cái gì cũng đẹp, cũng gần gũi :
Sao lại yêu cả tên đường phố
Thấy cuộc đời ai ai cũng vui
Không biết vì sao vô cớ mỉm cười
Nói chuyện với cả cầu thang gác ( Khắp nơi )
Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi vẫn thường nhắc đến anh bạn thơ Hà Nhật dân Quảng Bình gầy đen, nhưng thông minh, nhạy cảm và đa tình. Nguyễn Bùi Vợi kể : “...Chúng tôi dại dột rủ nhau in chung một tập thơ tình ở một nhà xuất bản tư nhân có tên là “Tre xanh” do ông Nguyễn Hoàng Quân chủ trương . Tập thơ mỏng dính , gần hai chục bài. Nâng niu tập thơ trên tay , tôi mừng khôn xiết nhưng sau đó cảm giác xấu hổ không xóa đi được vì thấy thơ bạn tài hoa, bay bướm hơn thơ mình , mình không đáng đứng cạnh”... Nguyễn Bùi Vợi là một nhà thơ có tiếng, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ đời tám hoánh, mà nói về người bạn thơ “tỉnh lẻ” của mình, chẳng hội viên hội viếc gì như thế là chân thật và đáng trân trọng.
Từ năm 1956, khi mới chưa đầy 20 tuổi, Hà Nhật đã có những bài thơ “Đợi đò”, “Mưa Huế” rất sắc sảo. Trong bài “Mưa Huế”, hình bóng những cô gái Huế rất đẹp: Dáng gầy như cỏ cây quê mẹ / Giếng tình thăm thẳm mắt không vơi…” . Hà Nhật còn hăng hái làm thơ gửi đăng báo Đất Mới, một kiểu báo Nhân văn của sinh viên thời ấy. Rồi hay la cà gần gũi với lớp đàn anh như Nguyễn Bính, Trần Dần, Lê Đạt, Quang Dũng, Nguyễn Đình, Trinh Đường và cả Bùi Xuân Phái nữa… Nên khi vụ Nhân văn–Giai phẩm xảy ra, tuy không “dính”, nhưng sinh viên Lương Duy Cán cũng bị ghi vào sổ đen. Vì thế năm 1959, tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Sư phạm vào loại giỏi thời đó là hiếm lắm, oách lắm, nhưng Hà Nhật không được dạy cấp 3, bị “phát vãng” về dạy cấp 2 ở Diễn Châu, Nghệ An ba năm liền.
Sinh thời, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi có lần kể cho tôi, hai nhà thơ Vương Trong và Hoàng Cát nghe một chuyện vui cười ra nước mắt. Thời dạy học ở Diễn Châu, có lần nhớ mất của Nguyễn Du, Hà Nhật cùng với một thầy giáo dạy văn cao to cùng trường đêm hôm tổ chức “tưởng niệm Nguyễn Du” ngay trong phòng ở của mình. Hai người thắp hương, đốt nến khấn rồi thay nhau nói về tính nhân văn trong thơ Nguyễn Du. Hai thầy giáo say mê không biết ở ngoài cửa có người rình . Nghe xong anh chàng hốt hoảng đến ngay nhà ông lãnh đạo địa phương tố cáo là có hai người đêm hôm ca ngợi “nhân văn –giai phẩm”. Cái người gầy còm ( tức Hà Nhật) nói tới 18 lần “nhân văn”, còn người cao lớn nói 11 lần .Hồi ấy, cụm từ “nhân văn-giai phẩm” đồng nghĩa với “phản động”. Mà dân quê thì không phân biệt được từ “nhân văn” sang trọng ấy với vụ “nhân văn-giai phẩm”! Từ đó Hà Nhật bị “ghi vào sổ đen”. Hà Nhật có yêu một cô giáo quê ở Nghĩa Đàn, miền Tây Nghệ An, cách Diễn Châu khoảng 80 cây số, nhưng khi gia đinh nghe nói thầy giáo này có dính tới nhân văn giai phẩm, thì gia đình kiên quyết không gả. Chính người con gái ấy và mối tình bị từ chối đã “cho” Hà Nhật bài thơ tình nổi tiếng “ Bài thơ tình của người thuỷ thủ”.
Thầy kể rằng, hồi năm 1962, vì buồn tình, nhân mấy ngày nghỉ, có mấy người ngư dân ở quê Bảo Ninh ra Nghệ An đi buôn bán bằng thuyền biển rủ thầy về quê bằng thuyền với họ. Từ Nghệ An vào Đồng Hới đi đường bộ thời đó cũng chỉ ngày rưỡi. Nhưng tính thầy thích ngao du, chuộng lạ. Thế là thầy liều lênh đênh trên biển với ngư dân ba ngày ba đêm ròng. Say sóng ngất ngưỡng, nôn ra mật xanh mật vàng. Nhưng đổi lại thầy làm được Hai bài thơ tình của người thuỷ thủ rất hay, rất “độc”:
Em hỏi tôi nước biển màu gì?
Tôi người thuỷ thủ từng lênh đênh năm tháng
Tôi sẽ nói cùng em
Nước biển dịu dàng, bí mật và cuồng nộ
Cũng như màu đôi mắt của em
Đoan trích trên ở bài I, Bài 2 của “Bài thơ tình của người thuỷ thủ” jasu hơn , nổi tiếng . Hồi đó, dân yêu thơ Quảng Bình ai cũng thuộc :
Nếu ở cuối trời có đảo chân trâu
Hay ở đảo xa có nụ hoa thần tìm ra hạnh phúc
Hay có người gái đẹp
Môi hồng như san hô
Cũng không thể khiến anh xa được em yêu
Nhưng hỡi em
Nếu có người trai chưa từng qua bão tố
Chưa từng qua thử thách gian lao
Lẽ nào có thể xứng với tình em?
Khi làm xong thơ, thầy sợ không ký tên Hà Nhật mà ký tên là Mai Liêm, gửi báo Hà Nội, lấy địa chỉ liên lạc của một người chị bà con bên mẹ là chị Chiến đang học ở Trường cấp 3 Đồng Hới (sau này thành vợ nhà thơ Hải Bằng). Khi báo đăng bài thơ, nhạc sĩ Hoàng Vân đọc được, cảm và phổ nhạc, nhưng không đề “phổ thơ Mai Liêm”. Bài hát “Tình ca người thuỷ thủ” lập tức được công chúng thanh niên cả nước đón nhận nồng nhiệt. Đến hôm nay, trên Radio, tivi, nhiều ca sĩ vẫn hát “Tình ca người thuỷ thủ”…Cái bút danh Mai Liêm ấy thầy còn ký ở rất nhiều bài thơ khác. Những năm 1960 ấy, hàng loạt các tác phẩm văn học đầy chất sống, cuốn hút người đọc đã bị các nhà phê bình văn học “đánh” kịch liệt và xếp vào tội “xét lại” như các tiểu thuyết Mùa hoa dẻ của Văn Linh, Nhãn đầu mùa của Xuân Tùng- Văn Thanh, Mở hầm của Nguyễn Dậu.v.v Bài thơ, bài hát “Tình ca người thuỷ thủ” cũng bị phê phán là “lãng mạn tiểu tư sản”, “xét lại”. Họ chất vấn “Đi tìm gì, tìm ai ngoài khơi xa kia?”. Những ngày tháng đó, Hà Nhật cảm thấy cô đơn da diết. Tôi có một câu thơ chết đuối dưới dòng sông / Tôi lãng quên suốt một thời trai trẻ (“Nói với dòng sông”). Có lẽ vì thế là người ta không để thầy dạy học ở Đồng Hới mà bắt lên dạy ở Lệ Thủy
*
* *

Hà Nhật đang đọc thơ
Năm 1964, thầy Hà Nhật về dạy ở cấp 3 Lệ Thuỷ, cũng là năm chúng tôi là Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty...vào học cấp 3. Thầy Hà Nhật và thầy giáo trẻ Phan Ngọc Thu đã truyền cho lớp chúng tôi một không khí yêu thơ, làm thơ rừng rực từ đấy. Những tiết học đầu tiên của năm lớp 8 , học sơ tán dưới nhà hầm chiến tranh nửa chìm nửa nổi ở thôn Đông Liễu, xã Liên Thuỷ ấy, chúng tôi đã nghe thầy đọc những bài thơ tình nồng cháy của mình. Đứa nào cũng chép đầy sổ tay. Rồi thầy dạy cho chúng tôi bài hát Hoàng Vân phổ thơ thầy, dù lúc đó bài hát bị cấm phổ biến. Hồi đó cả lớp tôi làm thơ, có hẳn một tờ báo tường tên là Văn Nghệ của nhóm sáng tác, bên cạnh tờ báo tường của Chi đoàn lớp. Thầy Hà Nhật sáng nào đến lớp dạy cũng lật xem những sáng tác mới của học trò. Bây giờ thầy 77 tuổi, trò đứa nào cũng 64, 66 cả rồi, mà gặp nhau thầy trò cứ thơ phú suốt đêm.
Những năm 60 của thế kỷ trước, thơ không vần ở nước ta mới chỉ là những sáng tác thể nghiệm của một vài tác giả . Ngay ở Hà Nội , nhà thơ có thế lực Nguyễn Đình Thi làm thơ không vần cũng bị phản đối quyết liệt. Thậm chí theo Hoàng Cầm trong hồi ức “ Nguyễn Đình Thi trong tôi- Nguyễn Đình Thi ngoài tôi”: “ anh Thi đến nhà xuất bản Văn nghệ đưa cho tôi đọc tập thơ Người chiến sĩ..., và anh Thi yêu cầu tôi cho ấn hành ngay, càng sớm càng tốt. Tôi đọc xong, rất thú vị vì vẫn còn nguyên những bài thơ thể tự do. Bấy giờ (1956) mà in được những bài thơ cách tân ấy thì thật có lợi cho phong trào thơ... “. Nhưng sau đó do sức ép của “cấp trên”, nhà văn Nguyễn Đình Thi phải xin lại bản thảo, sửa chữa tập thơ Người chiến sĩ thành những bài thơ theo vần truyền thống , thật tiếc !
Còn ở các tỉnh lẻ được xem là vương quốc của bảo thủ trong thơ. Những năm 1958 - 1975, nhà thơ Xuân Hoàng phụ trách Hội Văn Nghệ Quảng Bình, ai muốn in thơ phải viết có vần mới được in Tạp chí của Hội . Ây thế mà những bài thơ không vần của Hà Nhật viết ở Đồng Hới, nơi “tỉnh lẻ của tình lẻ”, lại nhuần nhuyễn, lung linh như những viên ngọc, ai cũng thích. Mới hay, thơ phải từ trái tim đến với trái tim . Miền quê nghèo khó đầy gió cát Quảng Bình đã sinh ra những nhà thơ trứ danh Thơ Mới, cả hiện đại và siêu thực như Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Xuân Sanh ... từng một thời đi tiên phong trong làng thơ Việt Nam.
Thầy Cán dạy văn giỏi ( ở Đồng Hới thời đó có câu ngạn ngữ : Văn Cán- Toán Trình , tức tức muốn văn giỏi phải học với thấy Lương Duy Cán, muốn giỏi toán phải học với thấy Đoàn Trình ) và làm thơ hay nên rất nhiều thế hệ học sinh thuộc thơ thầy. Thơ Hà Nhật khảm vào trí nhớ độc giả bao thế hệ. Có người thuộc mấy bài, một bài, có người chỉ thuộc một khổ thơ hay ý thơ. Họ ngồi với thầy bên chén rượu, đọc lên, rồi chắp nối lại từ trí nhớ, thành bài thơ hoàn chỉnh. Nhờ đó mà từ năm 2007 đến 2009 thầy đã ra Huế, Đồng Hới, Nghệ An “sưu tầm” lại được mấy chục bài thơ đã thất lạc để in tập thơ kỷ niệm cuộc thơ đời mình Đá sỏi trên đường. Hàng trăm bài thơ thầy không tìm lại được, vẫn ở trọng trí nhớ của người đời. Ví dụ thầy giáo dạy văn cấp 3 Đồng Hới Hoàng Quang Đông, một học sinh của thầy Cán, thuộc cả trường ca về Đồng Hới của thầy Hà Nhật viết từ những năm 60 của thế kỷ trước. Anh Đông bảo với tôi, mình đã đánh máy lại để gửi cho thầy. Có lẽ rất ít nhà thơ “có bảng hiệu” ở nước ta có được cái ân huệ “sưu tầm thơ mình trong công chúng” như Hà Nhật. Đó chính là sức sống lâu bền của thơ và nhà thơ trong trời đất!
Thơ Hà Nhật bị thất tán nhiều cũng do thi sĩ rất thích xê dịch, tính lãng tử. Ai rủ đi là đi ngay. Đi thâu đêm thâu ngày. Có chén rượu , có người đẹp thì đọc thơ suốt đêm. Năm 1972, một nửa Quảng Trị được giải phóng, Hà Nhật đạp xe ngay vào Đông Hà, rồi cùng ông bạn thơ đồng niên Hoàng Phủ Ngọc Tường ngao du mấy ngày đêm miên man trên đất Quảng Trị còn nóng bỏng lửa bom. Bởi thế ,gặp lại Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hà Nhật đã có thơ tặng bạn rưng rưng: Hãy cạn ly đi Tường ơi / Không uống được vào môi / Thì nhấp bằng mắt vậy / Để ta nhớ một thời sôi nổi / Ngang dọc hai ta một dải đất gió Lào (“Uống rượu với Tường”).
Sau 30-4- 1975, máu lãng du lại thôi thúc Hà Nhật tìm về phương Nam Chuyến “Hành phương Nam” ấy thầy về dạy học ở Phan Rang, Phan Thiết một thời gian, gặp chị Thanh Phương mới neo đậu lòng mình, rồi vào Sài Gòn làm giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm. Dạy học, nhưng thầy luôn gắn với thơ. Thầy viết sách bình giảng thơ cho Nhà xuất bản, bình thơ cho chương trình văn nghệ của đài truyền hình TP Hồ Chí Minh,...
Chuyện Hà Nhật làm thơ thời đó đã lây nhiễm sang một thế hệ đàn em như Hoàng Vũ Thuật, Lâm Mỹ Dạ, Hải Kỳ, Mai Văn Hoan, Lê Đình Ty, Trần Nhật Thu.v.v... Cách sinh hoạt thơ của các nhà thơ này cũng giống thầy Hà Nhật. Có người đẹp là rủ nhau mang rượu đến đọc thơ suốt đêm. Người đẹp là cái cớ để giải bày tâm trạng. Có người đẹp là thức suốt đêm làm thơ để tặng. Làm bài này đến bài khác, có khi cả năm ròng. Tặng xong thơ yêu là sung sướng, chẳng cần in ấn ở đâu cả. Nếp sinh hoạt đó luôn tạo ra một không khí thơ sôi nổi, dào dạt của cái tôi trữ tình chân chất.
Huế, tháng 7-2012
-------------------------------------
(*) Đá sỏi trên đường, thơ Hà Nhật , NXB Hội Nhà văn, 12-2011