Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012

Về LÊ ĐẠT (do Hà Nhật)


                 GẶP THƠ LÊ ĐẠT MỘT THỜI

                                                       Hà Nhật

  • 13 November, 2012 20:30
  • http://ngominh.vnweblogs.com/post/2246/390258


Nhà thơ Lê Đạt (1929-2008)

  Phải rất lâu sau Hà Nội giải phóng (1954) tôi mới bắt đầu biết đến thơ Lê Đạt. Là học sinh vùng địch tạm chiếm, tôi chỉ biết thơ Kháng chiến có Tố Hữu, rồi Hoàng Cầm, Hữu (tức Hữu Loan), Quang Dũng…
Những bài thơ đầu tiên đọc được của Lê Đạt đã chẳng gây ấn tượng gì lắm cho tôi. Đến khi đọc mấy bài của Lê Đạt trên Giai phẩm mùa xuân 1956 với những câu thơ đại khái như xã hội chủ nghĩa không thể vác ba lô đi bộ, tôi chỉ thấy hơi lạ mà không cảm thấy thích. “Lạ” là rất cần, nhưng chưa phải là tiêu chí số một của thơ. Nói như Nguyễn Văn Siêu, thơ trước hết phải làm xúc động lòng người.
Thế rồi, đùng một cái, báo Văn Nghệ đăng bài thơ Cha tôi của Lê Đạt. Cả giới làm thơ, trẻ như già, rúng động. Nhìn chung thì kết cấu của bài thơ không có gì lạ so với những bài thơ ngày đó : nhìn về quá khứ, nhận ra quá khứ buồn đau để cảm thấy mình thật may mắn hơn thế hệ cha ông. Kiểu thơ này, đọc tập thơ nào, bài thơ nào trên bất cứ tờ báo nào lúc này mà chẳng thấy. Nhưng với kết cấu ấy, Lê Đạt trong Cha tôi, có những câu thơ chưa từng có, những câu thơ như từ gan ruột người ta mà ra, những câu thơ như từ trải nghiệm đau đớn của cuộc đời mà ra. Lâu lắm người đọc thơ Việt Nam mới được đọc một bài thơ như thế. Trải qua hơn nửa thế kỷ, tôi chỉ còn nhớ một số câu thơ. Chẳng hạn như những câu mở đầu :
          Cha tôi
          Đất quê Đề Thám
          Rừng rậm sông sâu
          Con gái cũng quen nghề võ
Những câu thơ nói về cái hăm hở của chàng trai mới vào đời, sang sảng ngâm lên những câu Kiều của Nguyễn Du như chính là chí khí của mình :
          Phong trần mài một lưỡi gươm
          Những phường giá áo túi cơm sá gì
Những câu nói về một thế hệ thanh niên Việt Nam :
          Khóc Phan Châu Trinh như khóc người nhà mình
Rồi đến những câu thơ nói về cái bất đắc chí của con người sinh bất phùng thời, sau chứng kiến thất bại liên tiếp của các phong trào cứu nước, biết mình không thể làm để thắng nổi những oan trái trong đời, đành chấp nhận sống chung với nó nhưng không công nhận nó :
          Ngâm một câu Kiều
          Ôm mặt khóc
Cho đến khi sự chấp nhận đã trở thành thói quen, con người ta cam chịu với nỗi nhục phải sống, “càng sống càng tồi”, con người ta trở nên hèn đi, sống mà chỉ như cỏ cây, không phải là sống. Hình ảnh người cha lúc này thật là tội nghiệp :
          Hai vai nhô lên
          đầu lún xuống
          Như không mang nổi cuộc đời
          Bóng in tường vôi
          Im lặng
          Bóng với người như nhau
Đến những câu thơ này thì cực hay :
          Mùi ẩm mốc tiếng mọt kêu cọt kẹt
          Ở chân bàn hay ở cả cha tôi ?
Có lẽ đọc hết một tập Sống mòn (chính xác là Chết mòn), một truyện Đời thừa của Nam Cao, nỗi cay đắng cũng chỉ đến thế thôi.
Có thể nói, với Cha tôi, Lê Đạt mới thực sự đươc mọi người coi là nhà thơ, nhà thơ của mình, nhà thơ của thời đại. Ngay năm đó, Cha tôi được đưa vào sách giáo khoa Giảng văn lớp 10, lớp cuối cùng của nhà trường trung học ở miền Bắc. Mọi người coi đó như một điều hoàn toàn tự nhiên. Tôi nhớ, vào năm ấy, không ít nhà thơ đã lấy thơ Cha tôi làm như cái chuẩn để mà khen chê thơ hay thơ dở. Cũng trong năm đó, một trong những cái tội của giáo sư Trương Tửu là dám từ trên bục giảng đường Khoa Văn của trường Đại học Việt Nam cho rằng “đem đặt bên cạnh bài thơ Cha tôi của Lê Đạt thì cả tập thơ Việt Bắc chẳng là gì cả”. Nên nhớ rằng Việt Bắc vừa được trao giải nhất về thơ trong giải thưởng của Hội Văn Nghệ Việt Nam cho hai năm 1954-1955. Cũng nên nhớ rằng giáo sư Trương Tửu là vị giáo sư duy nhất ở Việt Nam không có bằng cấp nào cả nhưng là thần tượng của mấy thế hệ sinh viên văn khoa và mỗi lời của thầy nói ra thì đều như mang theo một thứ ma lực huyền bí, không thể cưỡng lại được. Thầy Trương Tửu có cái tật mà sinh viên nào cũng biết là khi đã khen ai thì không tiếc lời, mà lời của thầy thì toàn là “lời có cánh”. Chẳng hạn thầy khen thơ Hồ Xuân Hương là “nếu đem những câu thơ ấy mà vắt, tưởng như nhìn thấy chất sống chảy ra ròng ròng…”.
Lê Đạt với Cha tôi, thế là hầu như trong giới làm thơ và yêu thơ, ai cũng biết. Tuy nhiên, đó chỉ mới là khúc dạo đầu cho một chặng mới của Lê Đạt.
Cứ như một chuyện lừng lững từ trên trời rơi xuống, tờ báo Nhân Văn số 1 được rao bán trên các nẻo phố Hà Nội vào một buổi sáng kia. Đi đâu cũng thấy có người mua báo Nhân Văn, đọc báo Nhân Văn. Mà tờ báo Nhân Văn thì ngay trang đầu là bài thơ của Lê Đạt : Nhân câu chuyện mấy người tự tử.
Thơ gì mà quái lạ thế này ? In ở trang 1, lại còn “xem tiếp trang 2”. Thơ không có vần, lại còn “leo thang” lên xuống gập ghềnh. Thơ mà lại còn có “tái bút” nữa ! Thế nhưng người đọc ngày hôm ấy có quan tâm gì đến chuyện đó đâu. Có thể nói trong lịch sử thơ Việt Nam xưa nay, chưa có bài thơ nào làm choáng váng người đọc với một số lượng đông đảo đến như vậy. Tôi đem chuyện này kể với anh Nguyễn Bính, lúc này là chủ bút báo Trăm hoa. Anh Bính bảo :
- Thì bởi vì đây là tiếng chuông cứu khổ mà lại!
Quả thật, hình như lúc này mọi quy tắc về thơ (ấy là nói thơ theo quan niệm như cho đến lúc bấy giờ người ta vẫn nghĩ) đều bị bỏ qua hết. Lê Đạt bắt đầu cứ như người ngồi kể chuyện vặt, một câu chuyện tò mò :
          Báo nhân dân số 822
          Có đăng tin mấy người tự tử
          Vì câu chuyện tình duyên dang dở
          Trưa mùa hè nóng nung như lửa
          Tôi ngồi làm thơ
          Vừa giận vừa thương những người xấu số
          Chân chưa đi hết đường đời
          Đã vội nằm dưới mộ.
Tiếp theo là những câu thơ rất trữ tình :
          Chết là hết
          Hết đau hết khổ
          Nhưng cũng là hết vầng trăng soi sáng trên đầu
          Hết những bàn tay e ấp tìm nhau
Lê Đạt hình dung ra cái cảnh đôi trai gái yêu nhau trước khi họ tìm đến cái chết :
          Người con trai ngồi trên gò đất
          Thổi sáo gọi người yêu
          Bắt nắng chiều đứng lại
          Lúa đang thì con gái…
          Xôn xao gió thổi
          Đầu sát bên đầu tính chuyện tương lai
Quả là những câu thơ đẹp một vẻ đẹp hiền lành kể về một mối tình đẹp nhưng bình thường của một chàng trai quê với một cô gái quê. Nếu chỉ xét về nội dung, chuyện  này chẳng có gì khác lắm câu chuyện Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài  mà người Hà Nội và người miền Bắc hồi đó ai cũng biết. Bởi có một bộ phim Trung Quốc đang chiếu và một vở cải lương đang diễn ở các rạp Kim Chung, Kim Phụng ! Tuy nhiên, đó chỉ là những tia khói báo hiệu cho một sự bùng nổ.
Bởi Lê Đạt không quy trách nhiệm cho một Chúc ông, Chúc bà nào đó làm chuyện “rẽ thúy chia uyên”. Lê Đạt viết những câu thơ chỉ có thể là thơ của Lê Đạt :
          Anh công an nơi ngã tư đường phố
          Chỉ đường cho
xe chạy
 xe dừng
          Rất cần cho luật giao thông
          Nhưng đem bục công an đặt giữa trái tim người
          Bắt tình cảm ngược xuôi
          Theo luật lệ đi đường nhà nước
          Có thể gây nhiều đau xót
                                      ngoài đời
Mọi sự cứ là nổ bùng lên. Đây đâu còn là chuyện của mấy người tự tử, đây là chuyện của cuộc sống đang diễn ra, chuyện của hàng triệu con người. Không chỉ là chuyện yêu nhau, mà là chuyện cơm áo, chuyện số phận con người. Cho đến bao nhiêu năm sau, những câu thơ ấy vẫn còn được nhiều người nhắc tới hoặc đọc lên. Thì ra Lê Đạt không làm thơ về mấy người tự tử, mà chỉ là nhân câu chuyện mấy người tự tử !
Sau này, đến lúc phản kích, những người tham gia cuộc phản kích phát hiện ra rằng trong bài thơ của mình, Lê Đạt đã dùng một biện pháp nghệ thuật khôn khéo có tên là symbole équivoque (hình tượng hai mặt). Sự phát hiện này đã trở thành một thói quen, một phương hướng quan trọng cho việc xem xét và đánh giá tác phẩm thơ suốt từ đó đến mãi tận bây giờ. Thơ Lê Đạt, thơ Trần Dần là équivoque, Lời mẹ dặn của Phùng Quán là équivoque, nhiều bài thơ có thể équivoque ! Symbole équivoque, ôi, con ngoáo ộp đã treo lơ lửng lên số phận bao nhiêu bài thơ, bao nhiêu người làm thơ. Thơ mà thẳng đuột như ruột ngựa thì mang tiếng là thơ thiếu chiều sâu, thơ không để lại dư vị cho người đọc phải ngẫm nghĩ, nhưng thơ mà có hai nghĩa thì bị quy là équivoque, là thâm hiểm. (Có điều rất đáng nói là cùng lúc đánh phá những bài thơ équivoque như thế, người ta lại không tiếc lời khen những bài thơ hai nghĩa của Hồ Xuân Hương là “có tác dụng chống lễ giáo phong kiến” !
Quả thật, chỉ với riêng một đoạn thơ có cái “bục công an” nói trên, bài thơ của Lê Đạt đã buộc người ta phải đọc và phải nhớ, đây không chỉ vậy, hết bài thơ còn một phần “tái bút” cũng dài ngang một bài thơ, trong đó có những đoạn như đoạn này :
          Ngày Phật Đản vừa qua được nghỉ
          Tôi với Văn Cao rủ nhau đi ăn thịt chó
          Văn Cao vốn là người nể vợ
          Mua thêm một gói về nhà
          Tôi bỗng giật mình (nhưng không dám nói ra)
          Người chủ lấy thơ tôi gói thịt !
          Ngay khi ấy tôi chỉ còn muốn chết
          Như dại như điên tôi oán đất oán trời
          Nhưng hôm nay tôi chỉ oán mình tôi
          Thơ tôi bị người đời ruồng bỏ
          Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ
          Vẽ phấn bôi son tô toàn màu đỏ
          La liệt đầy đường hoa nở chim kêu
Thế là Lê Đạt đã tranh thủ tấn công vào một xu hướng thịnh hành, có thể nói là xu hướng chủ đạo, của văn học (mà cả các bộ môn nghệ thuật khác cũng vậy) nước ta thời ấy : xu hướng tô hồng, hay nói cho chính xác, xu hướng gọi là lãng mạn cách mạng, tiêu chuẩn quan trọng nhất trong một tác phẩm được coi là có giá trị hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tội to quá. Bị đánh là phải.
Được 5 số thì báo Nhân Văn chết đứ đừ. Cũng từ đây, từ nhân văn được coi như đồng nghĩa với phản động. Còn từ giai phẩm thì hầu như không còn ai dùng đến. Tuy nhiên, hình như vào khoảng đầu hoặc giữa năm 1957 gì đó, Lê Đạt còn viết một bài thơ dài với cái tên ngộ nghĩnh : Cửa hàng Lê Đạt. Bài thơ chỉ được đánh máy chứ không in ở báo nào. Đa số người đọc biết Lê Đạt có bài thơ này là nhờ có một bài của Xuân Diệu đánh tơi bời trên tờ Tạp chí Văn Nghệ. Mùa hè 1958, Lê Đạt còn in được một tập Bài thơ trên ghế đá, mà Lê Đạt gọi là thơ về những thứ vulgaire (thông tục, tầm thường, không có gì thi vị) ở đời. Có điều là tập thơ được in nhưng không được phát hành.
Mùa thu 1958, với một cuộc chính huấn đại quy mô, “bọn nhân văn – giai phẩm ra trước tòa án dư luận”. Mọi chuyện thế là chấm dứt một cách êm thấm, có thể nói là tốt đẹp. Sau cuộc chỉnh huấn là một đợt “đi thực tế” dài. Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn. Còn ở trường Đại học, những cây đa cây đề bị bật gốc : Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh…
Tôi còn nhớ như in một buổi chiều, sau giờ lên lớp, thầy Phan Ngọc, một giảng viên quê xứ Nghệ, dạy chúng tôi môn Ngôn ngữ học đại cương, nói với lớp bằng giọng nhỏ nhẹ :
- Bắt đầu từ hôm nay, tôi được trường cho nghỉ dạy để viết tự kiểm thảo.
Thế là một mạch. Dẫu sao còn được nói mấy lời từ biệt. Còn các vị giáo sư nói trên thì chẳng nói năng được gì. Mãi mãi không ai biết trường Đại học Việt Nam có một vị giáo sư khi mới 24 tuổi đã đỗ hai bằng tiến sĩ tại Đại học Sorbonne danh giá của nước Pháp, một nhà triết học từng tranh luận với Jean Paul Sartre ở Paris, một nhà sử học có trí nhớ thông kim bác cổ, một vị giáo sư có lối giảng bài như lấy kiến thức ra từ từng ngăn kéo và hút hết hồn vía người ta. May lắm, sau này hình như có người biết ở Phố Hàng Gà Hà Nội có một ông thầy châm cứu giỏi vào loại siêu, hình như ông ấy nguyên là một giáo sư Văn học nổi tiếng…
Từ năm học 1958-1959, bọn chúng tôi lên học tận Cầu Giấy, cách Hà Nội 12 km, giữa một vùng đồng không mông quạnh, phía bên kia đường là làng Vòng làm cốm, cách về phía tây một đoạn nghĩa trang Mai Dịch, nơi chúng tôi thỉnh thoảng đến lao động. Hầu như với toàn thầy mới toanh. Mỗi tuần, mong như mong mẹ về chợ, đến chiều thứ bảy, Ký túc xá Cầu Giấy mở cửa, lũ sinh viên chúng tôi, hoặc đạp xe, hoặc đi bộ, ù về Hà Nội một ngày, để tối hôm sau, trước lúc 9 giờ, phải có mặt tại phòng ngủ.
Mỗi lần về Hà Nội, không hiểu sao cứ thấy buồn vô cùng. Hầu như chủ nhật nào tôi cũng ghé qua nhà Lê Đạt rồi nhà Trần Dần, chẳng để làm gì, chẳng giúp ích được gì, chỉ để gặp chị Thúy (vợ anh Đạt), chị Khoa (vợ anh Dần), biết rằng hai chị vẫn yên ổn, hai cháu bé, cháu Nhiên và cháu Kha vẫn chơi.
                                                                  
Sài Gòn , tháng 2 – 2008

Tái bút:
Những câu thơ của Lê Đạt dẫn trong bài người viết trích theo trí nhớ. Có gì sai sót mong nhà thơ thông cảm vì đã hơn 50 năm rồi…HN

Nguồn 2: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=5866


-------------------------------------------
02 November, 2012 21:04
http://ngominh.vnweblogs.com/post/2246/388448

CHUYỆN THẦY HÀ NHẬT LÀM THƠ

alt
Hà Nhật, Bùi Xuân Phái ký họa

Ngô Minh

               Tôi gọi là “thầy” vì thầy Lương Duy Cán ( Hà Nhật ) dạy văn tôi hồi nhỏ học cấp 3  ở trường huyện . Tôi viết Chuyện thầy Hà Nhật làm thơ vì thầy vừa ra mắt tập thơ đầu tay Đá sỏi trên đường (*) khi thầy đã U80. Thầy mà một thi sĩ từ trong máu thịt, thi sĩ từ lúc trẻ cho đến bây giờ,  nhưng lại không có tên trong danh sách Hội Nhà văn. Đó là một điều lạ, trong lúc rất nhiều người thơ phú làng nhang, thậm chí  vớ vẩn, vẫn chạy chọt để vào Hội.  Hà Nhật là một nhà thơ có tiếng từ những năm 60 của thế kỷ XX, sao lại chỉ có  51 bài thơ trong Đá sỏi trên đường ? Câu chuyện dài lắm, nó như là một phong cách thi sĩ.
          Tôi thấy thầy Hà Nhật suốt thời trai trẻ luôn lãng đãng thơ, lãng đãng em . Làm xong bài thơ, đọc bên chiếu rượu rồi  tặng người đẹp là coi như mãn nguyện, không hề biết lưu giữ để in thành tập,để xin vào hội này hội khác... Nhưng nhắc đến thơ Hà Nhật, trăm nhà thơ có tên tuổi đều yêu mến, nể trọng. Bởi thơ Hà Nhật vừa đam mê nồng cháy, vừa trí tuệ. Quê cũ nghèo không lúa không khoai / Chỉ có trời xanh và muối mặn (“Muối”). Gặp nhau bây giờ / Táo  trong vườn rụng hết / Thôi đừng nhắc nữa / Cho lòng đau / Nghe em (“Táo”). Tình anh như muối kia / Mặn mòi và lặng lẽ / Muối trăm đời vẫn thế / Tình anh không có màu (“Tình muối”). Năm 2007, viết ở đến thờ An Dương Vương ở Nghệ An trong chuyện ra thăm lại nơi mình từng dạy học xưa, Hà Nhật vẫn giữ được sự chất chứa ấy: Đền Cuông - cuông bay hết / Về chi nữa em ơi / Cha già còn ngoảnh mặt / Mong gì đời sửa sai ! (“Đền Cuông”)… Hay : Anh bơ vơ giữa cuộc đời phù du / Chỉ có em thôi / Chỉ có em là thật... ( Bão số 2, 2007).
           Thầy Hà Nhật được gia đình ở Bảo Ninh, ( Đồng Hới) gửi vào Huế học trường Khải Định ( trường Quốc học bây giờ) từ năm 1953. Hồi ấy mới mười bảy tuổi đã yêu, đã thơ “có nghề” lắm: Trên đồi sim/... Chiều tàn lịm/ Tàn cả trong tim / ...Tiếc tình xưa tan võ / Như những cánh sim bay (Trên đồi sim, Đá sỏi trên đường ). Sau Hiệp định Genève, Hà Nhật phải rời trường Khải Định, ra Hà Nội học tiếp Đệ nhị và đỗ tú tài toán năm 1956. Học giỏi toán nhưng lại xin thi vào sư phạm Văn. Hồi sinh viên học Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nhật thường chơi thân với các nhà thơ, nhà văn cùng trang lứa như Phùng Quán, Nguyễn Bùi Vợi, Vân Long, Băng Sơn, Thúc Hà …Lại bù khú rượu thơ bên các người đẹp, ngất ngư năm tháng. Yêu rồi, tặng thơ cho “nàng: rồi thì thấy cái gì cũng đẹp, cũng gần gũi :
                             Sao lại yêu cả tên đường phố
                            Thấy cuộc đời ai ai cũng vui
                             Không biết vì sao vô cớ mỉm cười
                             Nói chuyện với cả cầu thang gác ( Khắp nơi )
          Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi vẫn thường nhắc đến anh bạn thơ Hà Nhật dân Quảng Bình gầy đen, nhưng thông minh, nhạy cảm và đa tình. Nguyễn Bùi Vợi  kể : “...Chúng tôi dại dột rủ nhau in chung một tập thơ tình ở một nhà xuất bản tư nhân có tên là “Tre xanh” do ông Nguyễn Hoàng Quân chủ trương . Tập thơ mỏng dính , gần  hai chục bài. Nâng niu tập thơ trên tay , tôi mừng khôn xiết nhưng sau đó cảm giác xấu hổ không xóa đi được vì thấy thơ bạn tài hoa, bay bướm hơn thơ mình , mình không đáng đứng cạnh”... Nguyễn Bùi Vợi là một nhà thơ có tiếng, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ đời tám hoánh, mà nói về người bạn thơ “tỉnh lẻ” của mình, chẳng hội viên hội viếc gì  như thế là chân thật và đáng trân trọng.
          Từ năm 1956, khi mới  chưa đầy 20 tuổi, Hà Nhật đã có những bài thơ “Đợi đò”, “Mưa Huế” rất sắc sảo. Trong bài “Mưa Huế”, hình bóng những cô gái Huế rất đẹp: Dáng gầy như cỏ cây quê mẹ / Giếng tình thăm thẳm mắt không vơi…” . Hà Nhật còn hăng hái làm thơ gửi đăng báo Đất Mới, một kiểu báo Nhân văn của sinh viên thời ấy.  Rồi  hay la cà gần gũi với lớp đàn anh như Nguyễn Bính, Trần Dần, Lê Đạt, Quang Dũng, Nguyễn Đình, Trinh Đường và cả Bùi Xuân Phái nữa… Nên khi vụ Nhân văn–Giai phẩm xảy ra, tuy không “dính”, nhưng sinh viên Lương Duy Cán cũng bị ghi vào sổ đen. Vì thế năm 1959, tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Sư phạm vào loại giỏi thời đó là hiếm lắm, oách lắm, nhưng Hà Nhật không được dạy cấp 3, bị “phát vãng” về dạy cấp 2 ở Diễn Châu, Nghệ An ba năm liền.
           Sinh thời, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi có lần kể cho tôi, hai nhà thơ Vương Trong và Hoàng Cát nghe một chuyện vui cười ra nước mắt. Thời dạy học ở Diễn Châu, có lần nhớ mất của Nguyễn Du, Hà Nhật cùng với một thầy giáo dạy văn cao to cùng trường đêm hôm tổ chức “tưởng niệm Nguyễn Du” ngay trong phòng ở của mình. Hai người thắp hương, đốt nến khấn rồi thay nhau nói về tính nhân văn trong thơ Nguyễn Du. Hai thầy giáo say mê không biết ở ngoài cửa có người rình . Nghe xong anh chàng hốt hoảng đến ngay nhà ông lãnh đạo địa phương tố cáo là có hai người đêm hôm ca ngợi “nhân văn –giai phẩm”. Cái người gầy còm ( tức Hà Nhật) nói tới 18 lần “nhân văn”, còn người cao lớn nói  11 lần .Hồi ấy, cụm từ “nhân văn-giai phẩm” đồng nghĩa với  “phản động”. Mà dân quê thì không phân biệt được từ “nhân văn” sang trọng ấy  với vụ “nhân văn-giai phẩm”! Từ đó Hà Nhật bị “ghi vào sổ đen”. Hà Nhật có yêu một cô giáo quê ở Nghĩa Đàn, miền Tây Nghệ An, cách Diễn Châu khoảng 80 cây số,  nhưng  khi gia đinh nghe nói thầy giáo này có dính tới nhân văn giai phẩm, thì gia đình kiên quyết không gả. Chính người con gái ấy và mối tình bị từ chối đã “cho” Hà Nhật bài thơ tình nổi tiếng “ Bài thơ tình của người thuỷ thủ”.
               Thầy kể rằng, hồi năm 1962, vì buồn tình, nhân mấy ngày nghỉ, có mấy người ngư dân  ở quê Bảo Ninh  ra Nghệ An đi buôn bán bằng thuyền biển rủ thầy về quê bằng thuyền với họ. Từ Nghệ An vào Đồng Hới đi đường bộ thời đó cũng chỉ  ngày rưỡi. Nhưng tính thầy thích ngao du, chuộng lạ. Thế là thầy liều lênh đênh trên biển với ngư dân ba ngày ba đêm ròng. Say sóng ngất ngưỡng, nôn ra mật xanh mật vàng. Nhưng đổi lại thầy làm được Hai bài thơ tình của người thuỷ thủ rất hay, rất “độc”:
          Em hỏi tôi nước biển màu gì?
         Tôi người thuỷ thủ từng lênh đênh năm tháng
          Tôi sẽ nói cùng em
          Nước biển dịu dàng, bí mật và cuồng nộ
          Cũng như màu đôi mắt của em

     Đoan trích trên ở bài I, Bài 2 của “Bài thơ tình của người thuỷ thủ” jasu hơn , nổi tiếng . Hồi đó, dân yêu thơ Quảng Bình ai cũng thuộc :
                                 Nếu ở cuối trời có đảo chân trâu
                                 Hay ở đảo xa có nụ hoa thần tìm ra hạnh phúc
                                 Hay có người gái đẹp
                                 Môi hồng như san hô
                                 Cũng không thể khiến anh xa được em yêu

                                  Nhưng hỡi em
                                  Nếu có người trai chưa từng qua bão tố
                                 Chưa từng qua thử thách gian lao
                                  Lẽ nào có thể xứng với tình em?
                       
       Khi  làm xong thơ, thầy sợ không ký tên Hà Nhật mà ký tên là Mai Liêm, gửi báo Hà Nội, lấy địa chỉ liên lạc của một  người chị bà con bên mẹ là chị Chiến đang học ở Trường cấp 3 Đồng Hới (sau này thành vợ nhà thơ Hải Bằng). Khi báo đăng bài thơ, nhạc sĩ Hoàng Vân đọc được, cảm và phổ nhạc, nhưng không đề “phổ thơ Mai Liêm”. Bài hát “Tình ca người thuỷ thủ” lập tức được công chúng thanh niên cả nước đón nhận nồng nhiệt. Đến hôm nay, trên Radio, tivi, nhiều ca sĩ vẫn hát “Tình ca người thuỷ thủ”…Cái bút danh Mai Liêm ấy thầy còn ký ở rất nhiều bài thơ khác. Những năm 1960 ấy, hàng loạt các tác phẩm văn học đầy chất sống, cuốn hút người đọc đã bị các nhà phê bình văn học “đánh” kịch liệt và xếp vào tội “xét lại” như các tiểu thuyết Mùa hoa dẻ của Văn Linh, Nhãn đầu mùa của Xuân Tùng- Văn Thanh, Mở hầm của Nguyễn Dậu.v.v Bài thơ, bài hát “Tình ca người thuỷ thủ” cũng bị phê phán là “lãng mạn tiểu tư sản”, “xét lại”. Họ chất vấn “Đi tìm gì, tìm ai ngoài khơi xa kia?”. Những ngày tháng đó, Hà Nhật cảm thấy cô đơn da diết. Tôi có một câu thơ chết đuối dưới dòng sông / Tôi lãng quên suốt một thời trai trẻ (“Nói với dòng sông”). Có lẽ vì thế là người ta không để thầy dạy học ở Đồng Hới mà bắt lên dạy ở Lệ Thủy
                                                          *
                                                        *   *
alt
Hà Nhật đang đọc thơ

         Năm 1964, thầy Hà Nhật về dạy ở cấp 3 Lệ Thuỷ, cũng là năm chúng tôi là Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty...vào học cấp 3. Thầy Hà Nhật và thầy giáo trẻ Phan Ngọc Thu đã truyền cho lớp chúng tôi một không khí yêu thơ, làm thơ rừng rực từ đấy. Những tiết học đầu tiên của năm lớp 8 , học sơ tán dưới nhà hầm chiến tranh nửa chìm nửa nổi ở thôn Đông Liễu, xã Liên Thuỷ ấy, chúng tôi đã nghe thầy đọc những bài thơ tình nồng cháy của mình. Đứa nào cũng chép đầy sổ tay. Rồi thầy dạy cho chúng tôi bài hát Hoàng Vân phổ thơ thầy, dù lúc đó bài hát bị cấm phổ biến. Hồi đó cả lớp tôi làm thơ, có hẳn một tờ báo tường tên là  Văn Nghệ của nhóm sáng tác, bên cạnh tờ báo tường của Chi đoàn lớp. Thầy Hà Nhật sáng nào đến lớp dạy cũng  lật xem những sáng tác mới của học trò. Bây giờ thầy 77 tuổi, trò đứa nào cũng 64, 66 cả rồi, mà gặp nhau thầy trò cứ thơ phú suốt đêm.
              Những năm 60 của thế kỷ trước, thơ không vần ở nước ta  mới chỉ là những sáng tác thể nghiệm của một vài tác giả . Ngay ở Hà Nội , nhà thơ có thế lực Nguyễn Đình Thi làm thơ không vần cũng bị phản đối quyết liệt. Thậm chí theo Hoàng Cầm trong hồi ức “ Nguyễn Đình Thi trong tôi- Nguyễn Đình Thi ngoài tôi”: “  anh Thi đến nhà xuất bản Văn nghệ đưa cho tôi đọc tập thơ Người chiến sĩ..., và anh Thi yêu cầu tôi cho ấn hành ngay, càng sớm càng tốt. Tôi đọc xong, rất thú vị vì vẫn còn nguyên những bài thơ thể tự do. Bấy giờ (1956) mà in được những bài thơ cách tân ấy thì thật có lợi cho phong trào thơ... “. Nhưng sau đó do sức ép của “cấp trên”, nhà văn Nguyễn Đình Thi phải xin lại bản thảo, sửa chữa tập thơ Người chiến sĩ  thành những bài thơ theo vần truyền thống , thật tiếc !
             Còn ở các tỉnh lẻ được xem là vương quốc của bảo thủ trong thơ. Những năm 1958 - 1975, nhà thơ Xuân Hoàng phụ trách Hội Văn Nghệ Quảng Bình, ai muốn in thơ phải viết có vần mới được in Tạp chí của Hội . Ây thế mà những bài thơ không vần của Hà Nhật viết ở Đồng Hới, nơi “tỉnh lẻ của tình lẻ”, lại nhuần nhuyễn, lung linh như những viên ngọc, ai cũng thích. Mới hay, thơ phải từ trái tim đến với trái tim . Miền quê nghèo khó đầy gió cát Quảng Bình đã sinh ra những nhà thơ trứ danh  Thơ Mới, cả hiện đại và siêu thực như Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Xuân Sanh ... từng một thời đi tiên phong trong làng thơ Việt Nam.
              Thầy Cán dạy văn giỏi ( ở Đồng Hới thời đó có câu ngạn ngữ : Văn Cán- Toán Trình , tức tức muốn văn giỏi phải học với  thấy Lương Duy Cán, muốn giỏi toán phải học với thấy Đoàn Trình ) và làm thơ hay nên rất nhiều thế hệ học sinh thuộc thơ thầy. Thơ Hà Nhật khảm vào trí nhớ độc giả bao thế hệ. Có người thuộc mấy bài, một bài, có người chỉ thuộc một khổ thơ hay ý thơ. Họ ngồi với thầy bên chén rượu, đọc lên, rồi chắp nối lại từ trí nhớ, thành bài thơ hoàn chỉnh. Nhờ đó mà từ năm 2007 đến 2009 thầy đã ra Huế, Đồng Hới, Nghệ An “sưu tầm” lại được mấy chục bài thơ đã thất lạc để in tập thơ kỷ niệm cuộc thơ đời mình Đá sỏi trên đường. Hàng trăm bài thơ thầy không tìm lại được, vẫn  ở trọng trí nhớ của người đời. Ví dụ thầy giáo dạy văn cấp 3  Đồng Hới Hoàng Quang Đông, một học sinh của thầy Cán, thuộc cả trường ca về Đồng Hới của thầy Hà Nhật viết từ những năm 60 của thế kỷ trước. Anh Đông bảo với tôi, mình đã đánh máy lại để gửi cho thầy. Có lẽ rất ít nhà thơ “có bảng hiệu” ở nước ta có được cái ân huệ “sưu tầm thơ mình trong công chúng” như Hà Nhật. Đó chính là sức sống lâu bền của thơ và nhà thơ trong trời đất!
        Thơ Hà Nhật bị thất tán nhiều cũng do thi sĩ rất thích xê dịch, tính lãng tử. Ai rủ đi là đi ngay. Đi thâu đêm thâu ngày. Có chén rượu , có người đẹp thì đọc thơ suốt đêm.  Năm 1972, một nửa Quảng Trị được giải phóng, Hà Nhật đạp xe ngay vào Đông Hà, rồi cùng ông bạn thơ đồng niên Hoàng Phủ Ngọc Tường ngao du mấy ngày đêm miên man trên đất Quảng Trị còn nóng bỏng lửa bom.   Bởi thế ,gặp lại Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hà Nhật đã có thơ tặng bạn rưng rưng: Hãy cạn ly đi Tường ơi / Không  uống được vào môi / Thì nhấp bằng mắt vậy / Để ta nhớ một thời sôi nổi / Ngang dọc hai ta một dải đất gió Lào (“Uống rượu với Tường”).
           Sau 30-4- 1975, máu lãng du lại thôi thúc Hà Nhật tìm về phương Nam  Chuyến “Hành phương Nam” ấy thầy về dạy học ở Phan Rang, Phan Thiết một thời gian, gặp chị Thanh Phương mới neo đậu lòng mình, rồi vào Sài Gòn làm giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm.  Dạy học, nhưng thầy luôn  gắn với thơ. Thầy viết sách bình giảng thơ cho Nhà xuất bản, bình thơ cho chương trình văn nghệ của đài truyền hình TP Hồ Chí Minh,...  
          Chuyện Hà Nhật làm thơ thời đó đã lây nhiễm sang một thế hệ đàn em như Hoàng Vũ Thuật, Lâm Mỹ Dạ, Hải Kỳ, Mai Văn Hoan, Lê Đình Ty, Trần Nhật Thu.v.v... Cách sinh hoạt thơ của các nhà thơ này cũng giống thầy Hà Nhật. Có người đẹp là rủ nhau mang rượu đến đọc thơ suốt đêm. Người đẹp là cái cớ để giải bày tâm trạng. Có người đẹp là thức suốt đêm làm thơ để tặng. Làm  bài này đến bài khác, có khi cả năm ròng. Tặng xong thơ yêu là sung sướng, chẳng cần in ấn ở đâu cả. Nếp sinh hoạt đó luôn tạo ra một không khí thơ sôi nổi, dào dạt của cái tôi trữ tình chân chất.

                                                           Huế, tháng 7-2012
-------------------------------------
(*) Đá sỏi trên đường, thơ Hà Nhật , NXB Hội Nhà văn, 12-2011




Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

KỶ NIỆM 34 NĂM LỄ CƯỚI MẾN THUẬN



Hôm nay 12-11-2012 hai ông bà kỷ niệm 34 năm lễ cưới bằng bữa trưa đạm bạc cùng với các ảnh ngày xưa:











(Vĩnh Thuận - Ngọc Hà - 12/11/2012 - 14g30)


Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

ALAN PHAN viết về chính khách


Tia Sáng - 09:53-10/11/2012 
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=5853

Obama, Romney, và...

Alan Phan

Năm 2008, tôi bầu cho Obama. Tôi nghĩ biểu tượng của một người da đen làm Tổng Thống Mỹ là một thông điệp quan trọng cho thế giới về những thay đổi lớn lao trong cảm nhận của xã hội Mỹ. Nó xác nhận lại niềm tin ngây thơ nhưng bền vững là bất cứ một đứa bé nào lớn lên nơi đây, không kể nghèo giàu, không kể mầu da sắc tộc, đều có cơ hội để nắm giữ chiếc ghế lãnh đạo quyền lực nhất của “đế chế Mỹ”.

Năm 2012, tôi bầu cho Romney. Thực ra, tôi cũng chẳng mong đợi gì nhiều ở Romney. Bản chất ông cũng chỉ là một chính trị gia, dù biết nhiều hơn Obama về cách kiếm tiền trong một nền kinh tế thực, vẫn là một “con rối” ham danh tham quyền.

Kể từ năm 1980 khi tôi chánh thức trở thành công dân Mỹ, tính ra tôi đã đi bầu 16 lần hay nhiều hơn, nếu tính luôn các cuộc bầu cử sơ bộ và địa phương. Phần lớn, tôi đều hối tiếc cho sự lựa chọn của mình. Vì những kẻ được tôi bầu dù có thêm chữ Ngài Tổng Thống, Ngài Nghị Sĩ, Ngài Đô Thị Trưởng, Ngài Nghị Viên… vẫn hiện nguyên hình là những kẻ lạm quyền … và luôn luôn sử dụng OPM (tiền người khác) với một phong cách rất… yêu nước thương dân.

Cũng may là tôi sống ở xứ Mỹ, những ông, những ngài này bị quyền tự do ngôn luận và cơ chế phân quyền soi mói 24/7, nên những thói hư tật xấu bị kiềm chế tối đa. Nếu thả lỏng, với một ngân sách 4 ngàn tỷ đô la, một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất thế giới và một thói quen in tiền bừa bãi, thì hẳn là họ sẽ thành những con quỷ mà các chuyện cổ tích cũng không hình dung nổi.

Thú thực tôi chưa bao giờ có quyền lực gì trong 67 năm qua. Cho nên có thể tôi không đồng cảm hay “ghen tị” với các bạn đầy tớ. Một anh không hút, không nhậu…không thể biết cái “phê” của rượu thuốc. Một anh sư (tùy loại) không thể hiểu được cái tuyệt vời của sex. Chưa làm quan và chưa biết cái sung sướng của việc…hành hay hiếp dân, thì đừng nói vớ vẩn.

Nhưng với kinh nghiệm cá nhân qua nhiều tiếp xúc giao thiệp, tôi đã thấy “quyền lực” biến thái cá tính và hành xử của con người “thực”như thế nào. Khi công việc làm ăn phất lên vào thập niên 90’s và 00’s, tôi có quen nhiều chính trị gia Mỹ cũng như ngoại quốc. Quen vì bắt buộc của nghề nghiệp (nhất là khi đi bán máy bay cho GE Capital) hay vì xã giao cần cho networking (làm fund raiser cho các tổ chức hội đoàn). Nhưng thâm tâm, tôi cũng say mê và bị hấp dẫn bởi những nhà “lãnh đạo” đang “làm lịch sử” và “tạo tương lai”. Tôi lắng nghe từng chữ từng lời về những kế hoạch vĩ đại, những toan tính thần kỳ, những ích quốc lợi dân…và để tưởng tượng bay cao với những “chân thành của con tim nhiệt tình”. Tôi lăn xả làm rất nhiều việc chùa để giúp các bạn lãnh đạo của tôi hoàn thành sứ mệnh cao cả. Chỉ sau vài năm, tôi mới nhận rõ  nhiều cô gái đứng đường còn lương thiện hơn không ít các bác"lãnh đạo" đó.

Trong các chánh trị gia Mỹ tôi khá thân với 2 người. Một là Jack Kemp, từng làm thủ quân đội bóng bầu dục của Buffalo, rồi dân biểu, bộ trưởng và sau ra tranh cử chức Phó Tổng Thống Mỹ trong liên danh Bob Dole. Jack nghiêm túc, nhưng chí tình và trung thành với bạn bè. Tôi bỏ suốt 3 tháng theo anh mỗi ngày khi anh tranh cử chống Clinton-Gore (và thua). Tôi luôn nhăn mặt và tránh không nghe các diễn văn và phát biểu mỗi ngày trên bước đường vận động; vì anh chỉ nói những gì đám đông muốn nghe theo những khảo sát “thị trường” của các tư vấn. Muốn biết Jack, phải lè phè thư giãn cùng anh vào những đêm khuya, cạnh vài lon bia và miếng pizza nguội lạnh. Anh sâu đậm, sống nhiều hiểu rộng, có tính khôi hài đen và nhiều nghị lực khủng khiếp. Nhưng khi mặt trời mọc mỗi ngày, con người Jack biến mất, nhường chỗ cho chính trị gia Kemp, nói và làm như một diễn viên Holywood đại tài.

Joe Biden cũng là một khuôn đúc tương tự. Xuất thân là một luật sư, ông đã là chính trị gia gần như suốt đời, trong đó, 40 năm làm Thượng Nghị Sĩ. Tôi quen ông qua người bạn tỷ phú James DeRosa và đã làm cổ động viên cũng như fund raiser suốt 20 năm vừa qua. Như Jack, Joe là một người tử tế, lương thiện và vô cùng thông thái về chuyện chánh trị cũng như liên hệ trên thế giới. Ông có thể kể răm rắp hiện tình của Ukraine hay Nepal mà không cần hồ sơ bên cạnh. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ ghé văn phòng hay dự bất cứ cuộc vận động nào của ông vì không muốn nhìn chính trị gia và diễn viên Biden. Cách đây vài năm, trước khi ông thành Phó Tổng Thống, tôi cùng ông chạy bộ qua khu rừng cạnh nhà ông ở Delaware. Mệt và khát nước, ngài Nghị Sĩ chạy vào một nhà lạ, uống nước qua vòi tưới vườn thật thư thái bình dân.

Dĩ nhiên, các quan chức ở Trung Quốc và Đông Nam Á nơi tôi làm ăn cũng có rất nhiều chất “người” khi thả lỏng và không bị ràng buộc bởi những lễ nghi phong cách của quyền lực. Với gia đình và bạn bè, tôi chắc chắn họ cởi mở và thân tình như có thể. Thực ra, tôi đã từng được một ông cựu bộ trưởng quyền lực nhất của Việt Nam đọc cho nghe vài bài thơ tình thật tuyệt. Nếu ông làm một thi sĩ như bản ngã, chắc chắn sự đóng góp của ông cho đất nước sẽ nhiều gấp bội.

Tôi chưa bao giờ theo dõi kết quả của các cuộc bầu cử, ngay cả lần với Jack. Bởi vì nó chẳng thay đổi được gì ngoài ảnh hưởng đến cá nhân và gia đình của ứng cử viên. Jack là một cận thần khá thân của Tổng Thống Reagan và Bush (cha) nên anh rất rõ về những giới hạn của quyền lực. Ngoại trừ những vấn đề mà dân Mỹ hoàn toàn không quan tâm, vị Tổng Thống Mỹ thường phải quyết định theo đúng những đường lối, chánh sách mà phe nhóm ông đã thương thảo, thỏa hiệp với các phe đối lập, đôi khi ngược hẳn lại những gì ông mong muốn hay hứa hẹn. Với bao nhiêu thỏa hiệp mỗi ngày, riết rồi vị Tổng Thống không còn nhận ra chương trình nào là của mình nữa. Một Tổng Thống giỏi là khi mãn nhiệm kỳ, ông vẫn còn là ông.

Cho nên Obama hay Romney…, tôi vẫn là tôi. Mỗi ngày vẫn cần một viên Carvedilol cho trái tim, một viên Viagra cho trái thận và một viên Glucosamine cho xương khớp. Chỉ mong rằng vào 2016, Beyonce Knowles sẽ tranh cử với Megan Fox để thế giới có chút tươi mát. Và chúng ta sẽ tự hào biết bao nhiêu nếu lãnh đạo của chúng ta được tạp chí Cosmo bầu chọn là con người sexy nhất hành tinh?

(Vĩnh Thuận sưu tầm 11/11/2012 - Ngọc Hà)

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2012

Bài của Alan PHAN



Alan Phan

Vẫn chưa chịu chết …


T/S Alan Phan
“Những gì không thể đứng thẳng, những gì đang bị đe dọa, những gì đang rung chuyển theo từng cơn gió…rồi sẽ gẫy đổ theo thời gian. Nhưng bình minh sẽ theo sau bóng tối. Sự tái sinh không thể xẩy đến trước cái chết…” Robert M. Price.
Nếu trong 6 tháng tới, giá BDS xuống thêm 25 đến 30% thì chúng ta có thể coi như là bong bóng đã vỡ. Hệ quả là sự tiếp tục xuyên đáy thêm khoảng 30% kéo dài ít nhất là 2 năm. Dĩ nhiên tôi chỉ muốn nói đến phân khúc chung cư trung bình và cao cấp tại Hà Nội và HCM. Các loại BDS khác như biệt thự, đất nền, nhà phố, căn hộ rẻ, vùng ven đô, thương mại, văn phòng …sẽ bị ảnh hưởng lây, nhưng cường độ và thời điểm có thể thay đổi ít nhiều.
Và khi nói đến bong bong vỡ…nhiều người hình dung ngay đến những hoang tàn thường thấy sau những trận ném bom thời chiến… Thực tại không bi kịch như vậy đâu. Thậm chí, phần lớn người dân có thể không quan tâm và ăn nhậu bình thường theo đúng phong cách “makeno” của xã hội.
Tại sao bong bóng phải vỡ mà không xì hơi?
Bởi vì muốn tiếp tục bơm, chúng ta cần hơi. Những thành phần muốn giữ cho bong bóng căng tròn như chánh phủ, ngân hàng, công ty BDS, nhà đầu cơ thứ cấp…đều đã hết hơi. Việc in tiền xả láng để bơm hơi cũng không còn khả thi vì hậu quả của lạm phát. Không quan chức nào dám để dân phải mang bao bố tiền đi mua 1 ổ bánh mì. Tất cả lực đỡ của BDS bây giờ chỉ còn một giải pháp là 50 tỷ USD vàng và ngoại tệ trong dân sẽ được đem ra quăng vào BDS, cách này hay cách khác. Dù các quan chức hồ hởi chuyện huy động được 60 tấn vàng trong dân mấy tháng vừa qua, tôi cá rằng chánh phủ hay các công ty BDS sẽ không moi móc thêm một đồng nào. Dân trí có thấp đến đâu, đồng tiền vẫn sẽ liền với khúc ruột, kể cả ruột ngàn dặm.
Các thành phần nào trong dân sẽ chịu nhiều ảnh hưởng nhất?
Khi bong bóng BDS vỡ, nợ xấu ngân hàng sẽ tăng gấp 3 lần và có lẽ hơn 50% các ngân hàng tư nhân sẽ phá sản. Đây chỉ là một ước tính có nhiều xác suất sai lạc, vì hiện nay, các thống kê về tài chánh công tư của Việt Nam khá mù mờ và mâu thuẫn. Dân gởi tiền được bảo hiểm đến 50 triệu đồng, do đó phần lớn tài khoản sẽ an toàn. Số ngân hàng còn sống sót sẽ được sự hổ trợ đặc biệt của NHNN nên thanh khoản cũng sẽ khá cao. Vì 70% dư nợ của ngân hàng hiện nay là do các tập đoàn tổng công ty nhà nước vay, nên ảnh hưởng trực tiếp sẽ không gây xáo trộn gì trong vận hành kinh tế vĩ mô (vẫn trì trệ).
Tuy nhiên, ảnh hưởng gián tiếp sẽ đầy dẫy. GDP có thể quay về zero tăng trưởng, tỷ lệ thất nghiệp sẽ cao gấp đôi, sức tiêu thụ của người tiêu dùng co cạn và lạm phát có thể tăng quá 2 con số (tùy theo mức độ in tiền).
Khi bong bong vỡ, thành phần giàu có (khoảng 5% dân số) sở hữu nhiều tài sản từ BDS, chứng khoán, vốn riêng của doanh nghiệp và các đầu tư khác sẽ chịu thiệt hại nặng nề. Tuy vậy, một số nhỏ đại gia dùng đòn bẫy vay mượn cao ngất, có thể lợi dụng tình thế mà xù nợ hợp pháp.
Thành phần trung lưu, công tư chức và mua bán nhỏ (khoảng 20% dân số) cũng sẽ đối diện với thất nghiệp, sức tiêu thụ giảm và lạm phát cao, nhưng có thể thắt lưng buộc bụng và vượt bão an toàn.
Thành phần còn lại (75% dân số) sẽ khổ sở chịu đựng thêm một thời gian dài với mức sống khá cơ cực so với các nước láng giềng. Tuy nhiên, họ không có nhiều tài sản để bị tổn hại hay mất mát. Gặp khó khăn ở các thành phố và khu công nghịệp, họ sẽ rút về quê cũ sống qua ngày, đợi chờ cơ hội khác.
Thành phần hưởng lợi trong 2013 là những người dân có tiền mặt, dễ dàng thu mua tài sản với giá cực rẻ. Những hiện tượng tích cực khác gồm việc bớt giao thông (ít kẹt xe thì ít bị ô nhiễm hơn), bớt ăn nhậu (ít bệnh và ít tệ nạn xã hội hơn), bớt tham nhũng (ít dự án và ít nhu cầu giấy tờ)…
Bài toán căn bản hiện nay
Theo thống kê mới nhất của NHNN, tổng dư nợ của tất cả ngân hàng thương mại (quốc doanh và tư nhân) là 2.89 triệu tỷ đồng (140 tỷ USD) vào cuối tháng 10. Nếu chi phí đồng tiền (cost of money) là 15% mỗi năm, lãi suất cho số nợ trên là 21 tỷ USD mỗi năm, không tính nợ gốc. Nếu 70% doanh nghiệp toàn quốc vay nợ và chỉ sản xuất ra 77 tỷ USD mỗi năm (dựa trên 70% của GDP năm 2011), thì mỗi USD kiếm được, họ phải chi ra 29 xu (hay 29% doanh thu) để trả lãi suất. Trừ việc mua bán ma túy hay buôn gái, không một ngành nghề kinh doanh nào có thể sinh lợi để giải quyết bài toán này. Không xóa bỏ hết để lập bàn cờ mới, nền kinh tế Việt Nam, bất kể định hướng nào, sẽ loay hoay với vấn nạn này trong cả chục năm tới.
Nhìn lại lịch sử kinh tế của nhân loại, chuyện bong bong tài sản căng nóng rồi vỡ tan là một hiện tượng khá binh thường, qua mọi thời đại với mọi sắc dân trong mọi định chế. Biện luận Viêt nam là một ngoại lệ, cần giải pháp đặc thù hay có một kết cục tốt đẹp không thuyết phục lắm. Ngay cả quyết tâm của các chánh quyền cố gắng ngăn cản sự đổ vỡ cũng thường xẩy ra, thường làm chậm tiến trình, nhưng sau cùng cũng vô hiệu. Ai cũng biết là ung nhọt phải vỡ để da thịt mau lành. Sau một trận lửa lớn, cây cối trong khu rừng thường xanh tốt hơn.
Chấp nhận định luật của thiên nhiên, trả giá cho những sai phạm trong quá khứ và tiếp tục hành trình của đổi mới và sáng tạo. Hãy dành thì giờ lên kế hoạch cho một tương lai mới theo những tiền đề và thay đổi của tình thế. Đừng loay hoay với những điều chỉnh nửa vời, qua những thỏa hiệp với nhiều phe nhóm lợi ích và lợi dụng.
Tệ nhất là lấy tiền của 95% nhân dân đi cứu trợ cho 5% dân giàu có.
Phải dứt khoát là “hãy để chúng chết đi”.
T/S Alan Phan là một doanh nhân bôn ba làm ăn trên 43 năm qua tại Mỹ và Trung Quốc. Ông cũng là tác giả của 8 cuốn sách Anh và Việt ngữ về kinh tế tài chánh của các nền kinh tế mới nổi. Ông tốt nghiệp tại các đại học Penn State, American Intercontinental (Mỹ), Sussex (UK) và Southern Cross (Úc). Web site cá nhân là www.gocnhinalan.com.