Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Cựu chiến binh thật và rỏm



Cựu binh Nguyễn Hồng Quân mưu sinh.
Cựu binh Nguyễn Hồng Quân mưu sinh.
Nhớ thời làm ở Hà Nội, mỗi lần về quê ăn Tết với bu, thế nào cũng có màn đóng góp cho xóm làng. Thông thường là bác trưởng xóm, bên phụ nữ, người chi bộ, từ 3 đến 5 người. Họ đợi tối mồng 2 Tết thì đi thăm bọn con cháu thành đạt ở thành phố về quê vì hội này hay đi vào sáng hôm sau.

Đầu tiên là màn chào hỏi, thăm sức khỏe và tình hình công tác, con cái và gia đình. Sau đó đề nghị đóng góp cho địa phương. Chú biết đó, con đường ra bãi tha ma hiện đang lầy lội. Anh Q đã đóng cả chục triệu rồi, còn thiếu vài bao xi măng, chú xem có giúp xóm được vài trăm ngàn không.
Bà mẹ ngồi bên đá vào, thôi con ạ, của ít lòng nhiều, con đi xa, ở nhà trăm sự nhờ đảng và chính quyền địa phương, các anh của con đóng hết rồi, bây giờ đến lượt con. Mẹ nói chả lẽ không nghe.
Thế là thằng cu đành rút ra vài tờ VNĐ, chẳng nhiều như các đại gia, gọi là chút tình quê hương nghe văn vẻ, nhưng thật ra bằng một lần uống bia của vài thằng bạn.
Sau này, thấy bà mẹ kêu quyên góp gì đó nhưng chi tiêu không rõ ràng, cãi nhau ỏm tỏi, lần sau con cứ đóng cho hội cựu chiến binh ấy. Cánh đi bộ đội về rất sòng phẳng.
Quả thật, tôi chả có nhiều, mỗi lần chút thôi, nhưng các anh ấy chi tiêu rất minh bạch. Nào là mua cái xe chở quan tài hết bao nhiêu, cờ phướn thế nào, bưng cái trống cái hết mấy trăm, kể cả chai rượu trắng chục ngàn các anh liên hoan cũng ghi vào hóa đơn.
Tôi luôn tin cựu chiến binh là những người đàng hoàng. Chả gì họ vào sinh ra tử, thân còn chẳng tiếc, tham gì mấy đồng tiền mà thành người ti tiện.
Thời ở Ba Lan, Bulgaria, hay sang Nga chơi cả nửa năm, gặp cựu chiến binh thế chiến 2, tôi có cảm giác họ như những anh hùng.
Sang Mỹ cũng vậy. Vào ngày Veteran Day 11-11 (Cựu chiến binh) thấy cả chục ngàn xe máy Harley Davidson chạy nườm nượp trên đường DC. Đó là cánh lính già râu ria xồm xoàm, người xăm không còn chỗ nào trống, đang biểu diễn xe máy ầm ầm, để nhớ lại thời trai trẻ lính chiến bụi xa trường.
Cựu binh Mỹ diễu hành. Ảnh: Nguyễn Vinh Quang
Cựu binh Mỹ diễu hành. 
Ảnh: Nguyễn Vinh Quang
Có lần tôi còn ngồi trên xe máy đi thử một đoạn. Cánh này vẻ đáng tin cậy, hiền từ, cho dù họ cũng bắn kha khá đạn về phía quân ta. Biết đâu có lão đòm anh trai mình cũng nên.
Lâu lâu về quê, tôi lại nghe làng xóm than, thời chống Mỹ, thằng trốn bộ đội lại vào hội cựu chiến binh. Thằng đào ngũ bỗng thành thương binh có thẻ đàng hoàng. Lúc đó tôi mới biết có cả nguyên bộ đội rỏm.
Đường phố Hà Nội náo loạn vì xe giả danh thương binh dù có người là thương binh thật, làm ăn chân chính vì mưu sinh.
Gần đây trên mạng có video clip mà các cựu binh đến tận cơ quan một blogger đến hoạnh họe tại sao lại chống dự án nhà máy điện nguyên tử, phản đối bauxite Tây Nguyên, đòi thu cả laptop của anh ấy. Lấy danh nghĩa thương binh để dẹp bất đồng là làm hại những người một đời vì dân vì nước.
Tôi lờ mờ hiểu rằng có nhiều loại cựu binh, có thật, có rỏm, có người trung thành, có người chẳng hiểu sao mình được phong làm cựu chiến binh vì một nhiệm vụ đặc biệt.
Mới đây có tin TBT của tờ báo Cựu Chiến binh bị phốt gì đó nên mới ngó vào xem. Hóa ra hội này rất mạnh, có cả một tờ báo. Theo tôi hiểu, tờ báo này dành cho bộ đội xuất ngũ là chính.
Rất tiếc, phần liên quan đến binh đao ngày xưa rất ít. Có phần thông tin về Hội CCB, điều lệ, vài tin nhỏ về hoạt động. Còn lại nó như một tờ báo trong 700 tờ báo khác. Đọc ở đâu đó rồi thì chẳng cần vào đây.
Chỉ có điều, muốn xem đại gia Đặng Thành Tâm làm ăn mánh mung thế nào, chị Hoàng Yến khai man lý lịch ra sao, hãy vào đây mà xem. Đủ hết thông tin. Nghe nói chính tờ báo này hạ bệ chị Hoàng Yến, phải ra khỏi Quốc hội.
Những cái tít giật gân như “Không thể để ông ĐTT lừa dối cử tri, qua mặt Quốc hội” hay “Vi phạm pháp luật của ông Đặng Thành Tâm vì sao chưa có chỉ đạo xử lý” vv. đủ thấy, các vị trong tòa soạn chỉ “chơi” mỗi gia đình nhà này. Không tin bạn đọc vào đây mà xem.
Có vài tờ khác như Người Cao tuổi và Petrotimes cũng xông vào “choảng” hai chị em Yến – Tâm.
Trong khi ấy, những vụ tày trời như Vinashin, Vinalines, PCI, PMU18 hay EcoPark, Tiên Lãng … thì thấy quí báo “thưa thớt, dựa cột”.
Đọc báo một thời gian thì tôi lờ mờ hiểu, một số tờ báo có định hướng của anh X, một số khác của anh Y, vài tờ của anh Z.
Thật ra chuyện này không lạ. Bên Mỹ cũng rứa. Washington Post ủng hộ đảng Dân chủ, có lần lật cả Tổng thống Nixon vì vụ Watergate. Nhưng cách đưa tin hay bình luận khá khách quan vì họ muốn dân của cả hai đảng mua báo.
Fox News luôn thuộc về đảng Cộng hòa, nhưng chỉ nghe họ đưa tin, chẳng ai có thể đoán là họ đang đánh đảng nào.
Các cựu chiến binh cần có không gian riêng.
Các cựu chiến binh cần có không gian riêng.
Một tờ báo như Cựu Chiến binh cũng nên định hướng phục vụ bộ đội phục viên, thương binh, công tác liệt sỹ, tìm hài cốt đồng đội, nhắn giúp bạn bè gặp mặt thời xưa.
Tin tức bình luận nên liên quan đến chất lính của chiến trường hơn là chính trường để cho hàng triệu người rời quân ngũ có một không gian riêng khác biệt với 700 tờ báo khác.
Mấy hôm nay nghe tin TBT của báo Cựu Chiến binh bị cáo buộc sai phạm ngay trước thềm đại hội Cựu chiến binh. Xem ảnh, thấy anh cũng khô khổ thế nào ấy, chắc cũng đi lính về hẳn hoi. Cũng mong tòa soạn xốc lại tinh thần cho tờ báo và đi đúng hướng cho những người lính cũ đọc và thấy mình trong đó.
Viết báo phải công minh và không được thiên kiến. Trách nhiệm là đưa tin trung thực và cấm tuyệt đối phe phái thì mới mong tờ báo sống với thời gian.
Nếu chỉ phục vụ anh Y, anh X, anh Z, thì khi các ảnh về vườn, hay bị kỷ luật, chủ tờ báo cũng về đuổi gà cho vợ chưa chắc đã xong.
Nghĩ chuyện cựu binh rỏm thật, sao mà rầu lòng. Nó rỏm ở ngoài đời đã đành vì miếng cơm manh áo, chả lẽ lại bước cả vào một tờ báo mà khẩu hiệu đầu trang là “Phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội cụ Hồ” Trung thành – Đoàn kết – Gương mẫu – Đổi mới”.

HM. 12-12-12.

danluan_00265

(Vinh Thuan - 12/12/2012)
Theo: http://hieuminh.org/2012/12/12/cuu-chien-binh-that-va-rom/
va:  http://quechoa.vn/2012/12/12/cuu-chien-binh-that-va-rom/#more-29403


Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Vĩnh biệt nhà Quốc tế ngữ ĐÀO ANH KHA

Vũ Ngọc TiếnVĩnh biệt một người thầy, một cây đại thụ chữ nghĩa (viet-studies 10-12-12) - Đào Anh Kha 


  • http://www.viet-studies.info/VNTien/VNTien_DaoAnhKha.htm
  • viet-studies --- 10-12-2012

---------------------------------
Trích trang Web của Hội QTN VN: http://vea.vn/view/1516_nien-bieu-phong-trao-quoc-te-ngu-viet-nam-phan-2.htm

TRÊN MIỀN BẮC THỜI KỲ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT
 

9-12-1956
 
Cuộc họp mặt của những người sáng lập "Hội QTN bảo vệ Hòa bình Việt Nam" (VPEA) thống nhất việc thành lập Hội.
 
21-1-1957
 
 
 
 
1957
Nghị định số 29NV/DC/NgĐ ngày 21-1-1957 của Bộ Nội Vụ do Đ/c Thứ trưởng Phạm Văn Bạch ký cho phép "Hội Quốc tế ngữ Bảo vệ Hòa bình Việt Nam" (vjetnama Pacdefenda Esperantista Asocio - VPEA) thành lập và hoạt động.
 
Khai trương phòng CLB kiêm thư viện của Hội, làm nơi sinh hoạt và đọc sách cho các hội viên và những người muốn tìm hiểu về QTN Esperanto.
 
1957
Bắt đầu phát hành tập sách "Tự học QTN Esperanto" do NXB Sông Lô ấn hành, của 2 tác giả Đào Anh Kha và Nguyễn Hải Trừng.
 
1958
Xuất bản cuốn sách "SKIZO pri VJETNAMIO" in tại NXB ngoại văn, mở đầu cho công tác xuất bản rất phong phú của VPEA (gần 100 đầu sách).






VĨNH BIỆT MỘT NGƯỜI THẦY,
MỘT CÂY ĐẠI THỤ CHỮ NGHĨA

Vũ Ngọc Tiến

Trái tim của Dịch giả - Nhà thơ- Họa sĩ- Nhà quốc tế ngữ Đào Anh Kha vừa ngừng đập. Ông quê ở Triệu Phong- Quảng Trị, sinh năm 1923 tại Quảng Bình, hoạt động cách mạng suốt 9 năm kháng Pháp ở Nam Bộ, từng là thư ký riêng cho ông Lê Duẩn thời đó. Sau ngày tập kết (1954), vì bản tính kiên cường, trực ngôn nên suốt đời ông chịu nhiều thiệt thòi, chèn ép. Lứa thanh niên học sinh, trí thức Thủ đô chúng tôi ngưỡng mộ và coi những bản dịch tác phẩm của Sếch-pia mà ông thực hiện những năm 60 thế kỷ trước là mẫu mực về dịch thuật. Ông cũng là người sáng lập và là Chủ tịch nhiều năm của Hội quốc tế ngữ Việt Nam. Thơ ông viết bằng song ngữ Việt- Pháp từ trẻ đến già đều rất tài hoa, thấm đẫm tinh thần triết học Hiện sinh, kết hợp nhuần nhuyễn với Đạo học của Lão Tử. Nhiều lần ông thủ thỉ với nàng thơ bằng tiếng Pháp mà thực chất là tuyên ngôn thơ của ông theo tinh thần Hiện sinh chủ nghĩa rất mới lạ. Năm 1997, nhân Hội nghị các nước nói tiếng Pháp họp tại Hà Nội, tôi có viết bài “Đào Anh Kha với tuyên ngôn thơ song ngữ Việt- Pháp”, đăng trên báo Người Hà Nội. Về già, vào lúc 80 tuổi, ông bắt đầu đam mê vẽ tranh. Căn gác xép ở 25B Tràng Thi- Hà Nội của ông chất đầy tranh và thật kỳ lạ vì có rất nhiều bức khỏa thân!... Một người tầm vóc lừng lững như thế mà viết đơn xin vào Hội nhà văn VN, có lời giới thiệu trân trọng của Huy Cận, nhưng suốt mấy chục năm không ai trong BCH Hội ngó tới... Đám tang ông lúc 16h00 ngày 10/12/2012 tại nhà tang lễ Phùng Hưng vắng hoe, chỉ vài chục người thân trong gia đình và Hội Quốc tế ngữ vì có lẽ hầu hết bạn bè, đồng chí thế hệ ông đã quy tiên hoặc ở tận thành phố Hồ Chí Minh khiến tôi ra về buồn the thắt!...
Với tôi, Đào Anh Kha là bậc cha chú, nhưng ông lại xem tôi như người bạn vong niên, còn tôi thì suốt đời tôn kính ông như người thầy, như cây đại thụ chữ nghĩa dìu dắt tôi tiếp cận với Triết – Mỹ học và Văn học phương Tây. Những lần cùng ông uống rượu, đàm đạo văn chương hay những bức thư trao đổi về học thuật của ông gửi cho tôi thật vô cùng bổ ích. Thời gian mấy năm tôi gặp hoạn nạn, ông thường nhắn tôi đến căn gác xép 25B phố Tràng Thi, uống rượu, tặng tôi 2 câu thơ đã thành phương châm sống và viết của đứa học trò lâu nay: “Đời ơi, Người nợ hay ta - Nếu ta chủ nợ thì tha cho Người!...”. Để tưởng nhớ ông- người thầy tôn kính, cây đại thụ chữ nghĩa, tôi đăng lại bài tiểu luận “Trò chuyện với nhà thơ Lão Thực”, cũng chính là bài giảng của thầy Đào Anh Kha cho riêng tôi về Hiện sinh và văn học Hiện sinh ở VN.

Hà Nôi 10/12/2012


♦ ♦ ♦

Trò chuyện với nhà thơ Lão Thực


Vũ Ngọc Tiến

Có một nhà thơ mà mỗi bài thơ của ông đi qua đời tôi đều đọng lại, ngân rung, đê mê, khơi dậy nguồn mạch cảm hứng cho cây bút của tôi, để rồi cả hai thành đôi bạn vong niên. Người ta bảo “Bát thập hồi nhi”, nhưng với nhà thơ này, tuổi xấp xỉ 80 linh hồn càng nhạy cảm, tuệ giác thêm mẫn tiệp. Thơ ông từ lúc trẻ đến giờ không ồn ào, nổi loạn hay dung tục mà vẫn nhuốm sắc Hiện sinh. Nó da diết, cháy bỏng trong sự cô đơn đến tĩnh lặng, hoang vu bởi những dằn vặt, ngẫm suy về thân phận tình yêu, thân phận của kiếp người dường như là bất đắc dĩ mà vẫn tự nó thắp sáng lên cho nó, cho tha nhân cái sự siêu việt ở nơi tận cùng của hư vô và ngay trong bản thể. Cái phần “con” của thân xác, phần “người” của tâm linh trong hai chữ “con người” đã hòa quyện vào nhau, đun đẩy chuyển hóa lẫn nhau, để biến thành máu thịt, thành nước mắt, thành giai điệu và màu sắc cho mỗi câu thơ của ông viết như để tâm tình thủ thỉ với tôi, với ai đó, từ nhà này sang nhà kia, lan đi giữa các nhà, rồi tan biến vào hư ảo, không cho ai cả, chỉ cho riêng mình, lại hóa ra là cho tất thảy…
Lần ấy, cỡ vào lúc nửa đêm, không gian thẫm màu mực, gió cào móng sắc vào ô cửa ràn rạt, con đi xa, vợ vắng nhà, giường côi chiếu lạnh, tôi nằm đếm từng giọt thời gian trên chiếc đồng hồ rơi khô đanh từng nhát xuống chân tường. Chợt tôi giật mình bởi chuông điện thoại đổ hồi. Đầu dây bên kia, nhà thơ Lão Thực nhắn sang tán dóc chuyện đời, chuyện đạo vì không sao ngủ được. Thân phận ông lúc này đâu có hơn gì tôi. Con gái lấy chồng xa, chửa ngoài dạ con phải mổ, bà vợ tất tả gói ghém tiền nong đi thăm, mình nhà thơ ở nhà lọ mọ lên xuống cầu thang gỗ khấp khểnh dốc đứng của ngôi nhà cổ đang tàn tạ như thân xác chủ nhân tàn tạ. Gặp nhau, ông ôm chầm lấy tôi khóc nấc lên rưng rức như chưa bao giờ được khóc. Hóa ra, trong cô đơn, lúc tuổi già, chợt ông nghĩ về cái chết. Người Hiện sinh dám sống đến tận cùng số phận thì cũng dám chết, nhưng bỗng dưng nghĩ về cái chết ai chẳng lo âu, sợ hãi. Ông bảo muốn làm thơ, trăng trối riêng với Nàng Thơ mà không sao làm được cả bài, chỉ được từng câu, từng đoạn nhập nhòe lộn xộn. Vậy mà mỗi lần nghĩ được một câu nào, đọc lại ông thấy buốt sống lưng, rã rời thân xác.
Tôi dìu nhà thơ ngồi xuống ghế, lấy chai rượu nếp cái hoa vàng có mùi hương cùi trái ổi găng, thứ rượu mà ông thích nên tôi vẫn thường mang theo bên mình, rót hai chén tống, cùng nhau tẩy trần. Rượu vào lời ra, nỗi cô đơn vơi đi, tôi với ông thao thao mọi chuyện trên giời dưới bể. Thế rồi, mãn vài chầu rượu, chúng tôi xoay sang bàn về Hiện sinh: Hiện sinh là gì? Nó vì sao có, lúc nào, ra sao và sao lại sống dai đến vậy? Có hay không văn học Hiện sinh ở Việt Nam?... Thường thì bao giờ nhà thơ Lão Thực cũng là người thuyết giảng, còn tôi là gã ngồi hóng chuyện, bàn xen. Nghĩ tới việc ông lo mình sắp chết, trăng trối vội vàng với Nàng Thơ chẳng được nên lời, tôi cũng đâm lo cái cơ hội chuyện trò như thế này còn được mấy hồi. Vậy nên lúc về nhà tôi tranh thủ ghi lại…

Nhà thơ Lão Thực: Anh biết gì về Hiện sinh?
Gã hóng chuyện: Nào tôi có biết gì đâu, chỉ nghe lõm bõm có một thời vì cái ấy, thứ triết học khỉ gió ấy mà người ta, nhất là lớp trẻ, nổi loạn, sống gấp, xô bồ, dung tục và đại loại là nhố nhăng, đáng vứt vào sọt rác văn hóa.
Nhà thơ Lão Thực: Không đúng. Nó cực đoan nhưng không xấu, thậm chí rất có ích cho văn học. (Có một thời ấu trĩ, hễ ai nhắc đến Hiện sinh còn bị chuốc vạ vào thân, đã kìm hãm sự phát triển văn học Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ XX.) Đáng tiếc, bước vào đổi mới, có một số người, để tỏ ra mình cấp tiến hơn các bạn viết, đã cố gồng cây bút lên cho có vẻ Hiện sinh, mà có khi Hiện sinh là gì họ còn chưa hiểu hết, sách Hiện sinh chắc gì đã đọc cho nghiêm túc. Ngược lại, có không ít người lại tỏ ra dị ứng, ác cảm với Hiện sinh. Triết học nào lập ra cũng vì con người, hướng dẫn con người đi tìm đến cội nguồn của hạnh phúc. Jean-Paul Sartre, cây đại thụ triết học Hiện sinh nửa cuối thế kỷ XX, nhà văn lớn khước từ giải thưởng Nobel văn chương năm 1964, đã từng công bố hẳn cuốn sách “Chủ nghĩa Hiện sinh là một chủ nghĩa nhân đạo” (1946). Chẳng lẽ sách đó là nhảm nhí? Cái cốt lõi, điều làm nổi cộm lên khiến lúc đầu nhiều người phê phán là bởi triết học Hiện sinh bác bỏ toàn bộ hệ thống triết học truyền thống lấy duy lý, nguyên tắc phổ quát, cơ sở thực chứng làm nền tảng, còn Hiện sinh, ấy là phi duy lý, ấy là trực giác, ấy là bản năng… Công thức cơ bản của nó là “Hiện sinh có trước bản chất”. Nó công nhiên tuyên bố rằng không hề có những bản chất của con người tồn tại trước khi có sự hiện hữu của con người trên mặt đất và tồn tại chẳng qua chỉ là quá trình hình thành liên tục. Con người chỉ là tổng số những hành động của mình, con người phải không ngừng tự lựa chọn để đi tới chỗ mà con người muốn trở thành. Nhờ tự vượt lên vì nó, cho nó, cho tha nhân mà con người siêu thăng. Vậy nên, khái niệm quyền tự do được đặt vào trung tâm của triết học Hiện sinh ở đây không phải hoặc không chỉ là tự do chính trị như mọi người e ngại, né tránh nói đến. Tự do đây là tự do từ trong bản năng, trong trực giác. Người ta bị phán quyết (nếu có Chúa thì Chúa phán quyết) phải tự do. Bản chất của con người là còn treo lơ lửng trong tự do của mình. Song cái quyền tự do này sẽ dẫn tới thái độ thường xuyên phải lựa chọn, đi theo đó là ý thức trách nhiệm với không phải ai khác mà với chính mình. Được tự do vô cùng, con người cũng phải chịu trách nhiệm đến vô cùng. Jean-Paul Sartre đã viết: “Người ta không làm cái mà người ta không muốn, và dù vậy, người ta vẫn phải chịu trách nhiệm về cái mà người ta làm. Sự thật thường là như thế”. Có lẽ thân phận của con người ta luôn phải bị nằm trong nghịch lý ấy nên cũng luôn dự cảm thấy điều lo âu, bất trắc và cô đơn trong mọi hành động lựa chọn của mình. Tâm trạng lo âu, thất vọng trước thực tại, thái độ hoài nghi về những khuôn mẫu, ước lệ, luật tục, luân lý đạo đức là một mặt biểu hiện của người theo chủ nghĩa Hiện sinh đôi lúc trở nên quá đà. Nhưng ác thay, chính vì thế mà con người quyết định dấn thân, tìm kiếm không ngơi nghỉ cái quyền tự do lựa chọn, hết lựa chọn này đến lựa chọn khác để được siêu thăng, để thành siêu việt.

Gã hóng chuyện: Ai là người sáng lập ra triết học Hiện sinh?
Nhà thơ Lão Thực: Không ai cả. Triết học Hiện sinh không phải do một bộ óc siêu việt nào nghĩ ra, lập nên học thuyết rồi có các môn đồ tiếp tục hoàn thiện, phát triển như trong các trường phái triết học duy lý truyền thống. Nó kế thừa những yếu tố Hiện sinh trong tư tưởng của nhiều triết gia trong quá khứ, rồi sang thế kỷ XX, khi thực tế xã hội kỹ trị phương Tây buộc người ta phải quay về với Hiện sinh, nó lại được nhiều nhà tư tưởng bổ sung, xây dựng thành học thuyết. Người ta đã có lý khi gọi nó là “phong trào Hiện sinh”. Bề ngoài có vẻ như là có hai trường phái: Hiện sinh tôn giáo và Hiện sinh vô thần, nhưng bản chất của Hiện sinh trong họ chỉ là một.

Gã hóng chuyện: Như vậy là có những nhà tiền bối của Hiện sinh và những nhà triết học Hiện sinh trong hiện đại. Vậy các bậc tiền bối là những ai?
Nhà thơ Lão Thực: Lịch sử triết học phương Tây cho thấy ngay từ Socrate (470-399 TCN) đã có yếu tố về tư tưởng Hiện sinh khi ông dạy các học trò “Hãy biết bản thân ta”. Chúa Ki Tô cũng đã có những hành vi xử thế thực là Hiện sinh với những con người bị hoạn nạn, tội lỗi và bần cùng. Trong kinh Cựu ước nói đến cuộc sống cô đơn của Adam và Eva, thân phận bi thảm của Job trên đống phân. Có lẽ vào thời Trung đại thì Blaise Pascal (1623-1662) xứng đáng được tôn vinh là ông tổ của chủ nghĩa Hiện sinh. Pascal tư duy về con người trong tình trạng bất an với tư cách một cá thể cụ thể, khi con người ý thức được sự liên hệ của nó với những cực đoan đối lập trong toàn thể. Con người chỉ là cây sậy yếu ớt trong tự nhiên, nhưng là cây sậy tư duy. Ông quan niệm con người bị treo lơ lửng trên một hố thẳm, một bờ là vô hạn, một bờ là hư vô. Sau này, các nhà Hiện sinh thời hiện đại muốn chỉ nỗi lo âu về những vấn đề không giải quyết được, họ hay dùng từ “Vực thẳm Pascal”…
Ở phương Đông cổ đại, bản thể luận trong Đạo đức kinh của Lão Tử có cả yếu tố biện chứng giản đơn và yếu tố Hiện sinh chủ nghĩa. Trong hành động, các môn đồ của Lão Tử - Trang Tử khao khát một sự tự do siêu thoát, kêu gọi người ta trở về với lạc thú từ trong bản năng và thân xác trần trụi hòa nhập với tự nhiên. Đạo Phật coi cuộc đời là bể khổ nên chuyên về ý tưởng cứu vớt chúng sinh thoát khỏi vòng nghiệp chướng, luân hồi quả báo. Về điểm này, có một thực tế là ở Sài Gòn những năm 60, khi chủ nghĩa Hiện sinh phương Tây tràn vào, có một vài người như Thích Đức Nhuận, Tâm Ích đã viết sách cho rằng từ khởi thủy, đạo Phật đã mang đậm màu sắc sâu lắng, Hiện sinh hơn cả Hiện sinh phương Tây (?). Đương nhiên đó cũng chỉ là một cách nhìn khu biệt, có phần ngẫu hứng. Miễn bàn sâu.
Vào cuối thế kỷ XIX, ở trong lòng xã hội phương Tây nảy sinh những khủng hoảng về đời sống tâm linh con người. Một số nhà triết học bắt đầu có tư tưởng hoài nghi triết học duy lý và thiên về khuynh hướng Hiện sinh chủ nghĩa. Trong số này đáng kể đến ba vị. Thứ nhất là nhà triết học Đức F. Nietzsche (1844 – 1900),  được xem như nhà tiền khởi của chủ nghĩa Hiện sinh. Ông đã viết rất nhiều sách, trong đó đáng chú ý là “Nguồn gốc của bi kịch”, “Sự phát triển của triết học”, “Bên kia cái thiện – cái ác”, “Hoàng hôn của những thần tượng”, “Này là người”… Nietzche còn viết nhiều áng văn tự thuật về tâm hồn ông với một văn phong rất độc đáo, lời văn có sức thôi miên, gây chấn động dữ dội trong lòng người đọc. Qua kênh văn chương, ông đã chuyển tải khá đẩy đủ, trọn vẹn tư tưởng Hiện sinh của mình. Triết học Nietzche có đôi chỗ cực đoan, nhưng nếu kết tội ông dọn đường cho chủ nghĩa phát xít của Hitle là không công bằng. Có điều khá lý thú là ở Việt Nam, vào những năm đầu thập niên 40, một số nhà văn đã quan tâm nghiên cứu triết học Nietzche. Năm 1942, Nguyễn Đình Thi đã viết cuốn “Triết học Nietzsche” (NXB Tân Việt – Hà Nội ấn hành), ở trang 202 có đoạn: “Nietzche dùng trực giác chống lại lý trí, dùng bi quan chống lại lạc quan, dùng phi đạo đức chống lại luân lý”. Vị thứ hai là S.Kierkegaard (1813 – 1855), nhà triết học Đan Mạch, cũng là nhà văn thuộc phái lãng mạn chủ nghĩa Đức. Cống hiến lớn nhất của ông này là về tính chủ thể của nhân vị làm nền tảng cho chủ nghĩa Hiện sinh. Quan niệm tính chủ thể của nhân vị  có ngọn nguồn từ trực giác do ông đề xướng, sau này được E.Kierkegaard trình bày trong “Hiện tượng học”. E.Husserl (1859 – 1938) chính là vị thứ ba, người sáng lập ra phân nhánh Hiện tượng học mà nhờ đó chủ nghĩa Hiện sinh mới có một qui chế triết học, mới thật sự trở thành một triết học như các trào lưu triết học đã có. Cụ Trần Đức Thảo có lẽ là người Việt Nam đầu tiên nghiên cứu sâu sắc về Hiện tượng học của Husserl. Năm 1951, cụ Trần Đức Thảo đã cho xuất bản ở Pháp cuốn “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”. Nếu tôi không lầm thì đây là đóng góp duy nhất lớn của Việt Nam vào trào lưu triết học thế giới thế kỷ XX vì đã chỉ ra cái mặt được và nhiều mặt chưa được của Hiện tượng học dưới góc nhìn biện chứng duy vật.

Gã hóng chuyện: Thế còn các nhà Hiện sinh của thế kỷ XX, ai là tiêu biểu?
Nhà thơ Lão Thực: Đã có nhiều người tổng kết, đánh giá về phong trào Hiện sinh thế kỷ XX. Theo tôi, tác giả người Pháp M.Fragonard trong cuốn “Từ điển lịch sử văn hóa thế kỷ XX”, ở mục từ Hiện sinh (Existentialisme) và vài mục từ khác có liên quan đã tổng kết, nhìn nhận, đánh giá khá toàn diện và xác đáng. Căn cứ vào đó, có thể nêu ra một số nhà triết học Hiện sinh tiêu biểu: Karl Jaspers (1883-1969), Gabriel Marcel (1889-1973), Martin Heidegger (1889-1976), Jean-Paul Sartre (1905-1980), Maurice Merleau-Ponty (1908-1961). Trong số này Sartre là nhà Hiện sinh người Pháp xứng đáng là cây đại thụ của chủ nghĩa Hiện sinh trong ba thập niên 50-70. Ông cũng là một trong những nhà văn hàng đầu của thế kỷ.

Gã hóng chuyện: Vậy trung tâm vấn đề của chủ nghĩa Hiện sinh là gì? Vì sao nó thâm nhập vào văn chương lại có sức thay đổi tận gốc nền văn học thế giới, đặc biệt là tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch bản sân khấu?
Nhà thơ Lão Thực: Triết học Hiện sinh coi con người là một nhân vị, hay như trong cuốn “Từ điển lịch sử văn hóa thế kỷ XX”, theo cách nói của M.Fragonard, Hiện sinh là triết học về nỗi lo tồn tại của con người. Ở trên, khi nói về bản chất của chủ nghĩa Hiện sinh tôi cũng đã nói rồi. Nhắc lại làm gì nữa. Cuộc tranh luận nổi tiếng với câu hỏi “Chủ nghĩa hiện sinh có phải là chủ nghĩa nhân đạo hay không?” do Sartre phát động ở châu Âu những năm 50-60 thế kỷ XX đã nói lên tất cả. Nhân vị của con người chính là Hiện sinh của nó, mang bộ mặt riêng biệt, đặc thù, xa lạ với mọi tính cách phổ quát trong triết học truyền thống từ Hegel đến giờ. Hiện sinh là một tư chất, đặc ân dành riêng cho con người, bởi vì chỉ có con người mới tự do lựa chọn cách sống, thái độ sống, tức có ý thức để thành hiện sinh. Bởi có ý thức để thành hiện sinh nên con người, lạ thay, luôn đau khổ, dằn vặt, lo âu trong cuộc kiếm tìm tự do và lựa chọn. Đây phải chăng cũng là vấn đề trọng tâm muôn thuở của văn học và các loại hình nghệ thuật. Tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản sân khấu có ưu điểm dễ đến gần với đại chúng, thâm nhập vào đời sống tâm linh của quảng đại quần chúng nhân dân. Vậy nên các nhà tư tưởng của chủ nghĩa Hiện sinh thích tìm cách thể hiện ở tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản sân khấu hơn là ở tác phẩm lý luận. Bản thân các nhà tư tưởng của chủ nghĩa Hiện sinh trong thế kỷ XX mà ta vừa nhắc đến đều là các nhà văn lớn, điển hình là Sartre. Ngược lại có những nhà văn hóa lớn, người đời cho rằng đó là nhà tư tưởng quan trọng của chủ nghĩa Hiện sinh như Renaud Camus chỉ được M.Fragonard xếp vào danh sách các đại biểu của chủ nghĩa Hậu hiện đại trong văn học mà thôi, mặc dù ông này có hẳn hai tác phẩm lý luận: “Tiểu thuyết vua” (1983) và “Tiểu thuyết phẫn nộ” (1986). Khi chủ nghĩa Hiện sinh đã thâm nhập vào văn học bằng tận cùng nỗi lo hiện sinh của con người thì cái áo khoác ngoài ngôn từ, cấu trúc truyền thống của văn học không còn thích hợp nữa, nó phải thay đổi tận gốc.

Gã hóng chuyện: Có hay không chủ nghĩa Hiện sinh và văn học Hiện sinh ở Việt Nam?
Nhà thơ Lão Thực: Câu hỏi này hóc đây - Ông tợp hẳn một hơi hết chén rượu nếp cái hoa vàng -  Mà anh cũng láu cá lắm, anh bạn ạ! Anh dẫn dắt tôi vào trận đồ bát quái bằng những câu hỏi lộn xộn, theo kiểu viết sách không cần trình tự, chương mục, cuối cùng trói tôi vào một câu hỏi chết người. Được thôi. Tôi sẽ nói rằng có mà cũng chưa có. Anh bằng lòng không?

Gã hóng chuyện: Ông cứ nói đi. Tôi chỉ biết nghe thôi mà.
Nhà thơ Lão Thực: Ở trên tôi đã nói, cốt lõi của chủ nghĩa Hiện sinh là vấn đề nhân vị, là nỗi lo hiện sinh của con người. Vậy nên vấn đề thân phận con người, những mảnh đời không hạnh phúc, sự nổi loạn trong tâm thức, trong bản năng con người trước mọi sợi dây trói của luân lý… thật ra đã có mặt trong các tác phẩm “Kiều” của Nguyễn Du, “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm, thơ Hồ Xuân Hương và đó chính là Hiện sinh. Nhưng đây là biểu hiện Hiện sinh có chừng mực. Có lẽ sự chừng mực ấy đã làm cho tác phẩm của họ bất tử…
Về mặt lý luận, ngay từ lúc ở châu Âu (Pháp) bắt đầu có phong trào Hiện sinh sục sôi ở các hầm rượu tại khu phố Saint Germain Des Prés, nơi người ta đam mê cuồng nhiệt trong điệu nhạc Jazz, thì năm 1951 Trần Đức Thảo đã bàn đến Hiện tượng học rồi. Sau này, ở miền Nam (1954- 1975), có một số nhà nghiên cứu triết học đã nhiệt thành truyền bá tư tưởng triết học Hiện sinh trong các trường Đại học ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt và trên các sách báo. (Ngay cả Ngô Đình Nhu, một nhân vật lịch sử  ở phía bên kia, đối nghịch với cách mạng, khi ông ta  xây dựng chủ thuyết cho đảng “Cần lao nhân vị” cũng đã đưa vào cái lõi triết học Hiện sinh là vấn đề nhân vị, nhưng cũng chính ông ta từ lúc còn là gã thủ thư ở thư viện Hà Nội lại là người đầu tiên phá hỏng nó bằng một mớ hổ lốn xáo trộn gượng ép và không được nhuyễn với kinh Phúc âm, Nho giáo, Lão giáo…) Triết học Hiện sinh ở miền Nam (những năm 60-70 của thế kỷ XX), do nhiều lý do khách quan chưa thể có được sự nghiêm túc, uyên thâm như tác phẩm của Trần Đức Thảo bàn về Hiện tượng học (1951). Ác thay, trong cơn lốc cuốn của cuộc chiến tranh ác liệt, những mặt nhạy cảm nhưng dễ là điểm yếu, là sự cực đoan, quá đà không có chỗ dừng chân của triết học Hiện sinh lại có điều kiện xâm nhập vào đời sống văn học miền Nam. Đó là trường hợp của Nguyễn Thị Hoàng (“Tuổi Sài Gòn” và “Vòng tay học trò”), Thanh Tâm Tuyền (“Cát lầy”), Chu Tử (“Loạn”), Trùng Dương (“Mưa không ướt đất”) và Vũ Khắc Khoan (kịch bản “Thành Cát Tư Hãn”), Túy Hồng (“Tóc mai ngàn năm”), Mai Thảo (“Hết một tuần trăng”)… Thật ra, trong số những nhà văn Hiện sinh này, tôi chỉ hứng thú với Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc và Thanh Tâm Tuyền, còn lại là sự nổi loạn, quá đà của thời chiến chứ không đơn thuần là Hiện sinh theo nguyên nghĩa nữa. Ngay như với Thanh Tâm Tuyền, cùng với trường hợp nhà thơ Tô Thùy Yên, tôi chỉ trân trọng đề cao hai ông ở góc độ nhà cách tân thơ là chính, mặc dù Thanh Tâm Tuyền viết nhiều văn xuôi hơn thơ. (Nói như vậy không có nghĩa văn học miền Nam đều là rác rưởi, bỏ đi như một số người mang sẵn trong đầu tư tưởng học phiệt đang cố cao giọng lấn át, phủ nhận. Còn nhiều tác giả, tác phẩm rất đáng trân trọng nghiên cứu, đánh giá lại cho công tâm. Vài chục cuốn tiêu thuyết viết trong 17 năm của Bà Tùng Long, mẹ của nhà văn Nguyễn Đông Thức, được xem như Quỳnh Dao của Việt Nam, truyện ngắn được xem là kiệt tác “Ba con cáo” của Bình Nguyên Lộc hay những thi phẩm của Bùi Giáng, Tô Thùy Yên là những ví dụ. Lại như một số truyện ngắn hiện sinh khá hay của Dương Nghiễm Mậu tôi đã đọc và thấy ông Vũ Hạnh có gì phải ầm ĩ bài xích một cây bút có tài chỉ vì quá khứ đi lính cộng hòa của người ta. Bỏ qua một nền văn học nửa nước, trong 20 năm sôi động phức tạp nhất của lịch sử nửa cuối thế kỷ XX là đắc tội với lịch sử, con cháu ta sau này sẽ chịu thiệt thòi. Cần nhấn mạnh, tôi chỉ hơi chê sự quá đà Hiện sinh của một dòng văn học khá phổ biến ở miền Nam thời đó mà thôi.). Lại còn bao tác phẩm có giá trị nhất định của các cây bút hải ngoại, đại diện cho hơn 3 triệu người Việt đang sống trên khắp các quốc gia (Mỹ, Pháp, Đức, Nga…) sao có không ít người bị phũ phàng gạt bỏ ra bên lề văn đàn Việt Nam đương đại?

Gã hóng chuyện: Thế còn văn học thời kỳ đổi mới?
Nhà thơ Lão Thực: Thật ra, đổi mới trong văn học với nghĩa là xuất hiện dòng văn học viết về thân phận con người đã có từ rất sớm. Đó là truyện ngắn “Chiếc guốc xinh xinh” của Thủy Thủ (1968), “Câu chuyện theo vòng xoáy trôn ốc” của Phan Lạc Tuyên (1970)… Nhưng hồi đó các truyện ngắn này bị coi là có tư tưởng xét lại. Đến 1982, truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” của Nguyễn Minh Châu có thể xem như bắt đầu cho giai đoạn của các truyện ngắn viết về thân phận con người ở khía cạnh không hạnh phúc. Về kịch bản, trước Lưu Quang Vũ với hàng loạt vở kịch nổi tiếng thì năm 1974 đã có vở “Bạch đàn liễu” của Xuân Trình. Ngược lại, trong tiểu thuyết thì chưa thể coi “Cù lao Tràm” và “Đứng trước biển” của Nguyễn Mạnh Tuấn là những tác phẩm đổi mới theo hướng viết về thân phận con người như tác phẩm “Phần hồn” sau này của anh được. Đó chỉ là hai tác phẩm có tính cấp tiến mang ý thức chính trị - xã hội hơn là giá trị văn học, thua nhiều mặt so với “Phần hồn”. Tôi cho rằng với hai tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu và “Đám cưới không có giấy giá thú” của Ma Văn Kháng, tiểu thuyết ở ta mới thật sự đổi mới về nội dung, gần gũi với văn học Hiện sinh. Mặc dù hai tác giả này không nhận mình theo chủ nghĩa Hiện sinh, nhưng cái điều hai ông viết về thân phận anh nông dân Sài và anh giáo Tự đã có sự phảng phất bóng dáng Hiện sinh rồi. Sau này, những cuốn “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường (1993) và “Người đàn bà buồn” của Nguyễn Phan Hách (1995) cũng theo hướng này, được công chúng dễ dàng đón nhận vì nói chung, những tác phẩm như thế chỉ là phảng phất nét Hiện sinh có chừng có mực, là Hiện sinh kết hợp với truyền thống cổ điển. “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh cũng thuộc nhóm các tác phẩm đổi mới, nhưng cái được lại ở văn phong, kết cấu theo trào lưu tiểu thuyết hiện đại phương Tây mà tác giả vận dụng trong đó, còn mặt Hiện sinh chưa đậm nét, phần hiện thực chiến tranh cũng còn chỗ e dè, phải bàn kỹ thêm nếu muốn dấn thân vào cõi giới của Hiện sinh. Song tôi vẫn ước gì cái văn phong, bút pháp ấy sẽ thành phổ biến như một văn phái hiện đại, bởi văn chương ở xứ ta lâu nay không có trường phái và chính Bảo Ninh không hiểu vì sao cũng không kiên trì theo đuổi tới cùng! Có lẽ chưa ai thành công trong bút pháp hiện đại như Bảo Ninh trong “Nỗi buồn chiến tranh”. Sau Bảo Ninh, Tạ Duy Anh cũng khá thành công ở khía cạnh này hơn Hồ Anh Thái vì một người (TDA) kết hợp liên thông giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, còn một người (HAT) lại quá đam mê bứt phá cách tân về cấu trúc truyện hiện đại hoặc hậu hiện đại mà coi nhẹ công năng khó phủ nhận của bút pháp cổ điển nên đọc văn anh người ta chỉ thấy lạ mà chưa thật cuốn hút. Cũng như vậy, 3 cuốn tiểu thuyết gần đây của cây bút hải ngoại Thuận mới chỉ dừng ở cái ngưỡng một giọng văn lạ mà thôi, chất Hiện sinh hơi nhạt và loãng; giá trị văn chương của nó tới mức nào thì có lẽ còn phải bàn thêm bởi ngay như cái hiện thực của đời sống đô thị Hà Nội trước và sau đổi mới trong tác phẩm đôi chỗ hơi bị sống sượng là một ví dụ, người đọc dễ dàng nhìn thấy rõ. Nguyễn Xuân Khánh là một điển hình của xu hướng khác, lấy chủ nghĩa cổ điển làm nền tảng, trên đó kết hợp với những yếu tố Hiện sinh về nội dung và yếu tố hiện đại về bút pháp, song ở ông, cái sự hòa trộn giữa cổ điển và hiện đại lại chưa thật nhuyễn nên độc giả đọc “Hồ Quý Ly” không trôi trang cho lắm; còn “Mẫu Thượng Ngàn” thì hơi bị rời rạc, bỏ quên nhân vật và sự kiện lẽ ra cần khai thác đến tận cùng khía cạnh Hiện sinh của nó. Dẫu sao tư duy nghệ thuật tiểu thuyết của ông cũng rất đáng trân trọng, thậm chí nên hình thành một văn phái tiểu thuyết thứ hai (có thể tạm xếp tác phẩm “Ngày hoàng đạo” của Nguyễn Đình Chính, “Thiên thần sám hối” của Tạ Duy Anh vào văn phái này). Một văn phái cách tân trung dung, song hành với văn phái có cách viết hiện đại khác của nhóm các tác giả Bảo Ninh, Hòa Vang, Hồ Anh Thái, Thuận…

Gã hóng chuyện: Vậy ta đánh giá thế nào về các nhà văn Hiện sinh nổi tiếng như Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài?
Nhà thơ Lão Thực: Nguyễn Huy Thiệp là trường hợp riêng, không nên xếp chung với hai tác giả kia. Văn Nguyễn Huy Thiệp biểu lộ tính Hiện sinh từ văn phong, kết cấu đến nội dung tư tưởng xuyên suốt toàn bộ các tác phẩm đã công bố. Đáng tiếc, về nội dung nó lại hơi bị quá đà trong cách nhìn có phần đen tối với hiện thực và lịch sử. Đứng về phía trách nhiệm công dân, có lẽ lối viết của tác giả là hơi phũ chăng, nhưng đứng về mặt lý luận, ta cần nghiên cứu thêm về nhà văn này. Còn lại trường hợp của Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, tôi nghĩ, chẳng có gì đậm nét Hiện sinh như một số tác giả miền Nam trước đây, chỉ nặng về hiện thực phê phán. (Họ bị công kích cũng bởi tính hiện thực phê phán có phần cay nghiệt chứ không phải vì tính Hiện sinh.) Tuy nhiên về mặt nghệ thuật, hai tác giả này cũng đã có một số cách tân trong cấu trúc, lối kể và dẫn chuyện (nhất là Phạm Thị Hoài đã bắt đầu sử dụng yếu tố hiện thực kỳ ảo, hậu hiện đại vào trong truyện ngắn và tiểu thuyết), song chưa thể coi họ là những đại biểu của văn học Hiện sinh thời kỳ đổi mới. Còn trong thơ mấy năm gần đây có hai hiện tượng: Thứ nhất, ở vài nhà thơ trung và cao tuổi muốn cách tân thơ, nhưng với Hoàng Cầm, Phùng Quán, Đào Anh Kha, Thảo Phương, Dư Thị Hoàn, Hoàng Hưng… là cách tân cả hình thức lẫn nội dung có nhuốm nét Hiện Sinh, đôi khi có người còn phảng phất cả chất Đạo học và Thiền học, thì thành công hơn các thi sĩ Lê Đạt, Trúc Thông, Thi Hoàng… chỉ đơn thuần là cách tân hình thức, thậm chí có vị sa đà vào trò chơi đố chữ. Thứ hai, các nhóm thơ trẻ xuất hiện ồn ào phá cách theo kiểu những nhóm nhạc Jazz trong các hầm rượu Paris hồi những năm 50- 60 thế kỷ trước nên gây sốc mạnh, nhưng theo thời gian tôi tin họ sẽ dịu lắng dần vào cõi giới của Hiện sinh, không chừng dăm năm nữa sẽ bật lên vài tên tuổi sáng giá. Các bậc lão làng không nên quá khe khắt với họ, càng không nên phũ phàng phủ nhận sạch trơn mọi nỗ lực cách tân ấy của lớp trẻ.

Gã hóng chuyện: Xem ra ông có vẻ là người trung dung.
Nhà thơ Lão Thực: Đúng là tôi trung dung giữa triết học truyền thống và triết học Hiện sinh. Theo tôi, triết học truyền thống quá cường điệu thuộc tính xã hội của con người, còn triết học Hiện sinh lại quá cường điệu thuộc tính cá nhân. Các cụ ta xưa nói: “Thái quá bất cập”. Nhà văn trong xã hội văn minh của thế kỷ XXI nên kết hợp liên thông giữa thuộc tính cá nhân với thuộc tính xã hội để nghiền ngẫm và sáng tạo. Về nghệ thuật biểu đạt, dù theo chủ nghĩa hiện đại, hậu hiện đại hay quay về với kết cấu truyền thống – điều ấy không quan trọng. Cái cần thiết là nghệ thuật truyền thống phải được cách tân và hiện đại hay hậu hiện đại phải phù hợp với tạng bút, nền tảng văn hóa của mỗi nhà văn. Gần đây truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là biểu hiện của Hiện sinh tự phát từ trong bản thân cốt truyện một vùng đất miền Tây Nam Bộ mà vẫn được viết bằng bút pháp truyền thống đấy thôi. Bản thân Nguyễn Ngọc Tư có thể chưa hề có ý thức về văn học Hiện sinh, khi cô cầm bút. (Nó khác hẳn với truyện vừa “Con thú hoang bị ruồng bỏ” viết từ năm 1975, xuất bản năm 1993 của một cây bút “Nhân văn giai phẩm” Nguyễn Dậu là Hiện sinh có chủ đích sâu sắc từ đầu, lại giữ được chừng mực đến độ, đáng được nghiên cứu cả về nội dung và văn phong, bút pháp. Song không hiểu vì sao ít nhà nghiên cứu để mắt thấu đáo kiệt tác này.)Văn học Hiện sinh ở phương Đông, ở Việt Nam chỉ nên có chừng mực, liên thông giữa cá nhân với nhân quần trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Và trong quá trình ấy, tôi nghĩ, ta nên ủng hộ mọi nỗ lực cách tân của cả lớp già hay lớp trẻ, (kể cả những cây bút ở miền Nam trước năm 1975), khi tác giả muốn tự làm mới mình, tạo nên những văn phái làm đa dạng văn chương nước nhà, cho dù lúc đầu phá cách họ có thể sai lầm hoặc quá đà trong tư duy nghệ thuật - có chết ai đâu mà sợ!...
Mà thôi, rượu vào hai ta sinh nhiễu sự, lắm lời… Vớ vẩn tất! Hãy xem những lời tôi nói đêm nay toàn vớ vẩn… Uống rượu tiếp đi. Uống cho đến sáng. Hiện sinh của tôi với anh lúc này là hai bóng lẻ cô đơn, với chai rượu nếp cái hoa vàng đã vơi một nửa…
                                                                                          
                                                                                                Hà Nội 2000-2007


Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Điểm sách BÊN THẮNG CUỘC của Huy Đức


Theo: http://www.viet-studies.info/THDung/THDung_DocHuyDuc.htm

TRẦN HỮU DŨNG: Đọc "Bên Thắng Cuộc" của Huy Đức (viet-studies 9-12-12) -- Cuốn sách vừa mới ra của Huy Đức mà nhiều người đã đợi chờ từ mấy năm qua.  Tôi đã có vinh hạnh được tác giả cho đọc trước toàn bộ bản thảo và có thể nói, đây là một tác phẩm mà hễ bạn cầm lên thì không thể đặt xuống! Về thể thức mua, xin xem trong bài.◄◄







Đọc “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức

Trần Hữu Dũng


"Bên Thắng Cuộc" của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết (kể cả những công trình bằng ngoại ngữ của các học giả nước ngoài). Chỉ cần đọc qua mục lục quyển sách là đủ để choáng ngợp bởi sự súc tích của nó. Tất cả những vấn đề nổi bật đều được kể lại với những thông tin mới lạ: từ sự cố “nạn kiều” ở miền Nam, đến những thất bại kinh tế đưa đến chính sách Đổi Mới năm 1986, vụ "Sáu Sứ", đến chiến tranh biên giới Tây Nam... đều được Huy Đức thuật lại rành mạch, lớp lang, theo ký ức của hàng trăm nhân vật chủ chốt  ̶  nhiều người có những vai trò quyết định trong các sự kiện ấy ̶  được chính tác giả phỏng vấn.

Cuốn sách đầy ắp những thông tin mà tôi chưa từng đọc được trong bất cứ sách báo nào đã xuất bản.  Có thể nói, ngoài Huy Đức, trong lớp nhà báo hiện nay, không ai có thể có được những phỏng vấn trực tiếp với hầu hết những nhân vật quan trọng ở Việt Nam như thế này. Huy Đức là một trong số rất ít (có thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam hiện nay có khả năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có biệt tài tạo sự tin cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự kiện vô cùng “nhạy cảm”, thậm chí "thâm cung bí sử".

Ngoài sự cực kỳ súc tích, một đặc điểm nổi bật khác, càng đáng ca ngợi, ở tác phẩm này là sự rất công bằng của tác giả đối với “bên thua cuộc”.  Tôi chưa bao giờ được đọc những câu chuyên về sự gian truân (mà tôi đã nghĩ là không bút mực nào tả xiết) của những người vuợt biên, những “thuyền nhân”, được kể lại một cách trung thực, không phê phán, không tuyên truyền, nhưng đầy tình người và nước mắt, như trong cuốn này. Tôi cũng chưa bao giờ được đọc về hoàn cảnh tái sum họp của những gia đình tập kết, hay những người bị đi cải tạo, như đã đọc ở đây.

Ở một tầm mức cao hơn, “Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam: Họ không phải là những ác quỷ “bán nước” (thậm chí “vô luân” trong đời sống cá nhân) như những người thù ghét họ thường khẳng định, nhưng cũng chẳng phải là những lãnh tụ anh minh, tài đức, luôn luôn gắn bó, đoàn kết với nhau, như ghi trong “chính sử” của Đảng.  Họ là những con người với những tị hiềm, những tranh chấp cá nhân, những thiếu sót ở cách cư xử trong gia đình, và, vâng, những sai lầm nghiêm trọng về chính sách, chiến thuật, về đường lối cai trị, và nhất là (theo tôi) cách chọn người của họ.  Những sai lầm mà, theo tôi, đã đưa đến hậu quả hiện nay (và vẫn còn tiếp diễn chưa biết đến bao giờ) cho đất nước. 

Hẵn có độc giả sẽ “than phiền” rằng “Bên Thắng Cuộc” thiếu những phân tích tổng quan của chính người viết, nhưng, tôi nghĩ, Huy Đức truớc hết là một ký giả, trọng trách hàng đầu của anh là ghi lại một cách trung thực, có hệ thống, càng nhiều càng tốt, những sự kiện xã hội, chính trị và lịch sử. Phần vụ phân tích những sự kiện ấy thì nên để cho những người khác (hay chính Huy Đức, trong một cuốn sách mà tôi mong anh sẽ viết sau này). Một phê bình khác, có lý hơn, là quyển sách này vẫn còn nhiều khoảng trống (trong dòng lịch sử). Có lẽ, khi đọc lại, tác giả sẽ phát hiện những khoảng trống ấy và sẽ lấp chúng trong những lần tái bản sau.

Tất nhiên, nhiều thông tin trong cuốn này cần được kiểm chứng (nhất là thông tin về những sư kiện liên hệ đến những quốc gia khác mà các học giả quốc tế đã nói đến khá nhiều, dựa vào những tài liệu văn khố hải ngoại). Song, dù vài sự kiện nào đó (ví dụ như về liên hệ với Liên Xô và Trung Quốc) có thể là chưa thật đầy đủ (và có thể có ích hơn nếu tác giả đối chiếu với những nguồn nước ngoài), cuốn này cũng hữu ích vì nó cho thấy cái nhìn của người trong cuộc (về phía Việt Nam).  Nếu họ có nhận định không đúng, có thiếu sót thông tin, và do đó có những quyết định sai lầm, thì chính sự sai lầm ấy cũng là một dữ kiện làm rõ thêm lịch sử.

Cuốn sách sẽ là một sự thích thú cho tất cả mọi người Việt Nam ưu tư với quê hương, mong muốn nhìn lại chính cuộc đời mình, gia đình mình, trong gần 40 năm qua, nhưng nó cũng là một kho tư liệu hết sức dồi dào, mới mẻ, cực kỳ quý báu cho những học giả, những sử gia nghiên cứu về Việt Nam.  Chúng ta nên cám ơn tác giả.


Trần Hữu Dũng
11/2012



Địa chỉ mua sách:

Ebook:

Các dạng khác (Nook, etc...): https://www.smashwords.com/books/view/263208

Sách in:
Cuốn 1, Giải phóng, $19.99 + $4.50 bưu phí.
Cuốn 2, Quyền bính, $19.99 + $4.50 bưu phí.

(Hai cuốn $40 + $9.00 bưu phí).
Có thể pre-order từ


gởi check/money order đến:

Transpacific Solutions LLC
107 Marshall Drive, Sharpsburg, PA 15215


Bên Thắng Cuộc
Huy Đức
Sách chia làm 2 cuốn:
Cuốn I: Giải Phóng
Cuốn 2: Quyền Bính
Dưới đây là mục lục Cuốn I.  Được biết Cuốn II sẽ ra mắt vào tháng 1-2013

PHẦN I: MIỀN NAM
Chương I: Ba Mươi Tháng Tư
Diễn biến quân sự và chính trị trong giai đoạn kết thúc cuộc chiến và những gì xảy ra trong dinh Độc Lập trong ngày 30-4 (Đi từ bưng biền/ Xuân Lộc/ Tướng Big Minh/ Trại Davis/ Nguyễn Hữu Hạnh/ Sài Gòn trong vòng vây/ Xe tăng 390/ Đầu hàng/ Tuẫn tiết)
Chương II: Cải Tạo
Những bàn bạc bên trong, quan điểm của chính quyền trong việc đối xử với “ngụy quân, ngụy quyền”, những thủ thuật được áp dụng để đưa sĩ quan vào trại cải tạo; số phận của những người tù không án, không biết ngày về và những bi kịch mà người thân của họ phải nhiều năm gánh chịu. (Những ngày đầu/ “Ngụy Quyền”/ “Ngụy Quân”/ “Đoàn tụ”/ “Phản động”/ Tù và cải tạo/ “Thăm nuôi”/ “Học tập”). 
Chương III: Đánh Tư Sản
Những công cụ chuyên chính vô sản áp dụng ngay sau ngày 30-4-1975: Đánh tư sản vào tháng 9-1975 và liền sau đó là đổi tiền lần thứ nhất 22-9-1975; Cải tạo tư sản tháng 3-1978… Sự khác nhau của cải tạo tư sản và đánh tư sản (“Chiến dịch X-2”/ Đổi tiền/ “Gian thương”/ “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”/ Hai gia đình tư sản/ Kinh tế mới)

Chương IV: Nạn Kiều

Sự thật về vấn đề người Hoa năm 1978 (Đội quân thứ năm/ Hiệp định Geneve/ “chổi ngắn không quét xa”/ Hoàng Sa/ Sợ “con ngựa thành Troy”/ ‘Nạn Kiều”/ “Phương án II”/ “Ban 69”/ Vụ Cát Lái).

Chương V: Chiến Tranh

Nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh ở CPC và biên giới phía Bắc năm 1979 (Biên giới Tây Nam/ Pol Pot/ Đi dây/ Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ/ “Kẻ Thù Lịch Sử”/ Thất bại trong tấn công ngăn chặn [Pre-emptive War]/ “Nhất biên đảo”/ “Áo lính lại khoác vào ngay”).

Chương VI: Vượt Biên

Điều gì đã khiến cho hàng triệu người VN phải bỏ nước ra đi. Bi kịch của người dân và thái độ chính quyền trước cuộc tị nạn lớn nhất của người Việt Nam trong lịch sử (“Vượt biên”/ Từ “trí thức yêu nước”/ Đến “thường dân”/ Trước khi tới biển/ Trại tị nạn).

Chương VII: “Giải Phóng”

Cuộc chiến tranh được gọi là giải phóng có thực sự giải phóng sau những gì mà những người cộng sản áp dụng tại miền Nam (Sài Gòn thay đổi/ Kinh tế mới/ Đốt sách/ Cạo râu/ “Cách mạng là đảo lộn”/ Lòng người/ Những người sinh ra không đúng cửa/ “Cánh cửa” Thanh niên xung phong/ Cửa không đủ rộng/ “Nổi loạn”/ “Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”).

PHẦN II: THỜI LÊ DUẨN

Chương VIII: Thống Nhất

Những lo lắng từ hai phía đặc biệt là của ông Lê Duẩn dẫn đến quyết định thống nhất hai miền cả về chính trị và kinh tế, áp dụng mô hình miền Bắc vào miền Nam một cách vội vã, mặc dù, nhiều người lúc đó, kể cả ông Lê Duẩn, nhận thấy nền kinh tế tư nhân miền Nam hiệu quả hơn những gì áp dụng trên miền Bắc (Nước Việt Nam là một/ “Bắc hóa”/ Chủ nghĩa xã hội/ “Con đường của Bác”/ “Mỗi người làm việc bằng hai”/ Lê Duẩn và mối tình miền Nam/ Chấp chính và chuyên chính).

Chương IX: Xé Rào

Chính sách kinh tế kế hoạch hóa và sản xuất lớn nhằm “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN” đã dẫn đất nước đến chỗ kiệt quệ. Người dân và chính quyền các địa phương, thay vì tuân thủ các nguyên tắc của nền kinh tế “kế hoạch hóa tập trung” chấp nhận một số quy luật của kinh tế thị trường, tiến trình này bị coi là “xé rào” nhưng chính những “lỗ thủng” đó đã trở thành lối thoát cho dân chúng (Bế tắc/ Mậu dịch quốc doanh/ Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng/ Tháo gỡ/ Nghị quyết Trung ương Sáu/ Bù giá vào lương/ Cắm cờ xé rào/ Khoán chui/ Ông Kiệt xé rào, ông Linh lãnh đạn/ “Ai thắng ai”).

Chương X: Đổi Mới

Vai trò của Trường Chinh trong việc tiếp thu thực tiễn và chuẩn bị về mặt lý luận để những người cộng sản chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, điều mà về sau gọi là đổi mới (Hội nghị Đà Lạt/ Nhóm giúp việc mới/ Người của những khúc quanh lịch sử/ Từ chính sách Kinh Tế Mới/ Đến chọc thủng bức tường bao cấp/ Giá-Lương-Tiền/ Nã pháo vào bộ tổng/ Khép lại trang sử Lê Duẩn/ Vai trò của Mikhail Gorbachev/ Tuyên ngôn đổi mới/ Bàn tay Lê Đức Thọ/ Phút 89).

Chương XI: Campuchia

Dù muốn hay không, Campuchia đã “nằm trong một trang sử” của Việt Nam. Không gian chiến tranh trong thập niên 1980s và cách mà Việt Nam đã làm để thoát ra khỏi hai cuộc chiến: Biên giới phía Bắc và Campuchia (“Pot ở đầu phum ta cuối phum”/ “Xuất khẩu cách mạng”/ Tư tưởng nước lớn/ Bị cô lập/ Phương Bắc/ Hội nghị Thành Đô/ Campuchia thời hậu Việt Nam).

 (HẾT CUỐN I)


(Vĩnh Thuận sưu tầm - Ngọc Hà - 9/12/2012)

Siêu gọn, Tiết kiệm và Môi trường



Siêu gọn

Lý Lan

Tia Sáng --- 03:17-07/12/2012 
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&News=5946&CategoryID=41


Bây giờ (và sau này) người càng lúc càng đông đúc, nguyên liệu đang cạn kiệt, một người sử dụng bất cứ cái gì quá mức vừa phải (bất kể khả năng tài chánh thế nào) là bị những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường coi là vô đạo đức. Một phong trào vận động người ta ở vừa đủ, giảm bớt hao tốn (tiền của họ và tài nguyên trong trời đất). Cái nhà tiêu chuẩn được thiết kế nhỏ lại. 
“Cả đời tôi đeo đuổi một ước mơ, ước mơ về một nơi tôi có thể gọi là nhà mình; nơi tôi ngồi bên cái bàn nhỏ với những ý tưởng lớn, không bị ai quấy rầy; nơi tôi có thể chào đón bao nhiêu người tùy thích, với khung cửa sổ nhỏ mở ra những mối quan hệ rộng. Tôi đã theo đuổi ước mơ về một thế giới nơi tôi có thể an cư bất cứ nơi nào tôi muốn, với cái giường nhỏ cho những giấc mộng to. Cả đời tôi đã đi theo ước mơ đó, và giờ đây, lần đầu tiên, ước mơ đó đi theo tôi, bất cứ nơi nào tôi đi.”*

Lời thuyết minh của đoạn phim dài một phút về ngôi nhà một mét vuông của Van Bo Le-Mentzel thể hiện một khái niệm di dân về nhà: nhà là bất cứ đâu mà mình có được tự do và riêng tư để ngồi suy nghĩ và nằm mơ mộng. Nó siêu gọn để có thể dịch chuyển bất cứ lúc nào đến bất cứ đâu mà nó được dành cho một mét vuông. Chỉ cần một mét vuông trên mặt đất này thôi. Ước mơ của một con người trốc khỏi cội nguồn sao mà cảm động. Nhưng thực tế là hàng trăm triệu người đang sống trên mặt đất mà không sở hữu được một tấc đất để cắm dùi; đối với họ một mét vuông là cả một ước mơ.

Ngôi nhà được coi là nhỏ nhất thế giới này có một cửa cái và một cửa sổ, không gian vừa đủ để ngồi làm việc với cái máy tính bảng trên tay, thò đầu ra cửa sổ chào hỏi người qua lại. Giường là tấm nệm gắn sát vách và mái, muốn nằm chỉ việc hạ cái nhà xuống vị trí nằm ngang. Và khi ra khỏi nhà đi chỗ khác, cứ kéo cái nhà theo sau, như kéo một cái va li to đùng. Không có bếp hay nhà vệ sinh. Không hề gì. Khi người ta trẻ và lãng mạn, ngôi nhà chủ yếu dành cho ba hoạt động kể trên, phần lớn năng lượng dành cho những hoạt động ngoài trời, ngoài xã hội. Tất nhiên cái nhà này cần một môi trường thân thiện với những tiện nghi công cộng mà người ta có thể sử dụng thoải mái.

Tôi đã từng thấy những cái tương tự như vậy ở Việt Nam. Một xe đẩy bán trái cây dạo của dân ngoại tỉnh kiếm sống ở thành phố, ban ngày là cửa hàng, ban đêm hàng hóa được dồn lại để có vừa đủ chỗ cho một người (có khi kèm cả trẻ em) nằm khoanh tròn trong giấc ngủ say sưa. Mái che bằng nhựa bao bọc được sự riêng tư, và cũng tạo hình một mái nhà che mưa tránh gió. Hồi còn chiến tranh, lúc tôi mới về ở xóm tản cư, nhà là túp lều lá tạm bợ, nhưng cũng được mười mấy mét vuông cho một gia đình bốn năm người chui ra chui vào. Có nhà chưa tới mười mét vuông, về sau lại dựng vách chia ra, tách làm hai hộ khẩu. Dù vậy vẫn còn lớn hơn cái thùng phuy. Cái thùng phuy rỉ sét đặt nằm ngang, trời mưa gió cỡ nào người nằm ngủ trong đó cũng không lo dột. Hồi đó, khi thấy ông già sống trong cái thùng phuy, tôi nhớ gì đâu cái nhà chòi của mình dưới quê, vốn là một cái lu da lươn nứt mẻ, bị bỏ lăn lốc ở góc vườn sầu riêng.

Dĩ nhiên, có điều kiện vật chất để xây một cái nhà đàng hoàng cho một cuộc sống thoải mái là mong muốn chính đáng mà nhiều người đã đạt được như thành tựu đáng kể nhứt của đời người. Cái nhà, theo Stephen Gardiner, mang ý nghĩa sự sáng tạo, một cái gì đó mới, một nơi cư trú giải phóng con người khỏi ý nghĩ hang động. Không chỉ là nơi che mưa tránh nắng hay nơi trú ẩn an toàn (hang động làm nhiệm vụ này hoàn toàn chu đáo), nhà thể hiện những nhu cầu văn hóa khác nhau của con người trong những thời đại và xã hội khác nhau.

Nhu cầu “nhà” trong xã hội hiện đại cơ bản là nhu cầu có được sự riêng tư. Trong văn hóa Việt, sự riêng tư không được coi trọng. Anh chị em độc thân ở chung nhà, ngủ chung phòng, là chuyện tự nhiên, cho dù bao nhiêu tuổi hay tánh khí thói quen khác nhau như thế nào. Chỉ khi một người cưới vợ hay lấy chồng mới có nhu cầu “ra riêng”. Mà khi đã ra riêng thì cuộc sống vợ chồng vẫn là chung mọi thứ. Một người Việt chịu ảnh hưởng văn hóa “truyền thống”, xuất thân cơ hàn, khi thành đạt thì xây một căn nhà khổng lồ để có thể đem hết cha mẹ anh chị em về ở, để chung hưởng phú quí.

Lối sống phương Tây là tìm kiếm tự do cá nhân trong không gian sống riêng tư. Ở thành phố New York chẳng hạn, có một triệu tám hộ gia đình chỉ có một hai nhân khẩu. Ở Âu châu hơn một phần ba dân số sống độc thân. Mỗi người một cái nhà, hay một căn hộ. Người nhiều tiền một mình ở nhà to, người ít tiền ở nhà nhỏ, có vẻ không có vấn đề. Nhưng trước đây, khi xây nhà, người ta nghĩ đến “gia đình” nhiều hơn một nhân khẩu, và để ngăn người cho thuê nhà nhồi nhét quá nhiều người trong không gian hẹp té, chính quyền các đô thị có qui định nhà phải đạt một diện tích tối thiểu nào đó, không thể nhỏ hơn, chẳng hạn 60 mét vuông.

Vào thời người còn thưa, ở nơi đất còn rộng, nguyên liệu rẻ, nhân công thừa, thì một người ở một (hay nhiều) căn nhà bao lớn không thành vấn đề. Nhưng bây giờ (và sau này) người càng lúc càng đông đúc, nguyên liệu đang cạn kiệt, một người sử dụng bất cứ cái gì quá mức vừa phải (bất kể khả năng tài chánh thế nào) là bị những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường coi là vô đạo đức. Một phong trào vận động người ta ở vừa đủ, giảm bớt hao tốn (tiền của họ và tài nguyên trong trời đất). Cái nhà tiêu chuẩn được thiết kế nhỏ lại. Nhưng bao lớn là to? Bao to là nhỏ?

Tháng 7/ 2012, thị trưởng thành phố New York mở một cuộc thi thiết kế căn hộ độc thân cho một chung cư sẽ xây trên phần đất công của thành phố, yêu cầu là mỗi căn hộ có diện tích từ 28 đến 30 mét vuông. Thông báo này, giống như mọi thứ khác chính quyền Mỹ đưa ra, gây hai luồng phản ứng mạnh mẽ: ủng hộ và chống đối. Nhà gì mà dưới 30 mét vuông, nước Mỹ chứ có phải thế giới thứ ba đâu, người Mỹ (ba phần tư dân số có thể trọng vượt mức trung bình) đâu phải chú lùn. Và những vật dụng gia đình “tiêu chuẩn Mỹ”, từ tủ lạnh, máy giặt, bếp lò… toàn là đồ vĩ đại, làm sao đặt chúng vô căn hộ tí hon?

Nhưng các nhà sản xuất đã đón gió trước rồi. Ngay lập tức, vô số mẫu mã siêu gọn của các đồ nội thất được chào hàng cho những căn hộ siêu gọn. Phần nhiều từ châu Âu. Bên đó người ta đã đi trước trong phong trào nhà siêu gọn, đồ đạc siêu gọn, đời sống siêu gọn. Nhật cũng đặc biệt ngăn nắp và coi căn hộ 30 mét vuông là rộng rãi, nếu biết xếp đồ nội thất vô tường khi không dùng tới. Thực tế là ở Mỹ cũng đã có những căn nhà siêu gọn từ tám chín mét vuông đến hai ba chục mét vuông, mà không phải vì thiếu đất hay đất mắc mỏ như ở thành phố New York. Đó là một sự lựa chọn cách sống, như một người cổ vũ phong trào ở nhà siêu gọn nói:

“Nếu căn nhà lớn vài trăm mét vuông, người ta có thể ở trong nhà cả ngày. Nhưng người ta không thể ở hoài trong căn nhà vài mươi mét vuông. Người ta phải ra ngoài, hòa nhập với thiên nhiên, với xã hội, do đó người ta có được cách sống hài hòa, cân bằng. Người ta có thể sống một mình mà không héo mòn trong cô độc.”
------------
(*) Dịch từ lời thuyết minh phim One SQM House

(Vĩnh Thuận sưu tầm - 9/12/2012 - Ngọc hà)

VỀ chương NHÃ CA ở CỰU ƯỚC


http://khoahocnet.com/2012/12/07/ts-pham-trong-chanh-van-de-nan-giai-dich-chuong-nha-ca-trong-cuu-uoc-tac-pham-my-tinh-duc-tuyet-tac-cua-nhan-loai/



TS PHẠM TRỌNG CHÁNH – VẤN ĐỀ NAN GIẢI DỊCH CHƯƠNG NHÃ CA TRONG CỰU ƯỚC. TÁC PHẨM MỸ TÌNH DỤC TUYỆT TÁC CỦA NHÂN LOẠI

kinhthanhcuuuocNhã Ca là một tác phẩm văn chương cổ đại của dân tộc Do Thái, cách chúng ta khoảng 630 năm trước Tây lịch. Một áng văn chương trữ tình, mỹ tình dục nói lên lời yêu đương tình cảm và thân xác đôi trai gái. Một tác phẩm tuyệt tác trong kho tàng văn học nhân loại. Vào thời đại đồ sắt, nước Do Thái bị chia đôi làm hai nước và 12 bộ tộc, để thống nhất dân tộc Do Thái bị chia rẽ, ảnh hưởng việc vua Ai Cập đương thời chủ trương một vị thần duy nhất là thần Mặt Trời, thay vì hàng ngàn thần, vị vua đương thời Josias đã đề ra 7 điều thống nhất: Một vị thần Yavée duy nhất cho dân Do Thái, một dân tộc duy nhất, một vị vua duy nhất, một bộ sách giáo khoa  duy nhất, một thủ đô duy nhất là Jérusalem, một ngôi đền duy nhất, một nghi lễ tôn giáo Do Thái Giáo duy nhất. (Xem Israël Finkelstein et Neil Asher Silberman. La Bible dévoilée. Bayard. Paris 2002.)
Bộ sách giáo khoa Cựu Ước duy nhất của dân tộc Do Thái, được các « học giả tiên tri » đương thời san định từ 39 quyển sách chép tay trên da cừu.. Gồm bốn đề mục: 5  quyển sách của Moise, 12 quyển sách về các vua Do Thái, 5 quyển sách văn thơ , và 17 quyển sách các tiên tri. Còn khoảng 40  quyển khác có kể tên nhưng đã thất truyền. Sự ra đời của Cựu Ước đồng thời tại nhiều nơi trên thế giới, chữ viết đã hoàn chỉnh, chữ viết đầu tiên của nhân loại được tìm thấy trên thẻ đất nung vùng Lưỡng Hà, trên mui rùa tại Trung Quốc. Tại Trung Quốc Khổng Tử san định Tứ Thư, Ngũ Kinh chép trên các thanh tre (thanh sử).  Tại Ấn Độ các nhà sư Phật Giáo tổ chức kết tập kinh điển ghi chép những lời Phật dạy chép trên lá bối, lá buôn và kết lại bằng hai sợi dây hai đầu gọi là kinh. Tại Hy Lạp, Thơ Homère được ghi chép trên giấy da,  Aristote chép lại những lời dạy của Socrate, Platon.Tại Ai Cập sách Tử Thư viết về việc ướp xác, dẫn hồn người đi về cõi bất tử, chép trên giấy thủy trúc, dòn dễ gảy. Nền văn minh Hy Lạp đã tiếp nối Ai Cập thiết lập tại Alexandrie và Athène những thư viện đầu tiên với hàng trăm ngàn cuộn sách da. Hiện nay trong số 1600 văn bản giấy da trước công nguyên, tìm thấy được ở Ai Cập, phân nửa là văn bản thơ Homère. Có hai vùng biết làm giấy trong thời đại này là vùng Ai Cập làm giấy bằng cây thủy trúc và  Nam Trung Quốc, Giao Châu làm giấy bằng vỏ cây dó, cây tràm. Ngày xưa chưa có kỹ thật để nghiền gỗ thành bột giấy, kỹ thuật làm giấy thủ công nghệ dùng thân cây thủy trúc mềm, lột vỏ cán mỏng, hay vỏ cây dó cây tràm bốc ra thành từng tờ, dùng một lớp nhựa cây, hay bột nấu là có thể kết dính thành giấy như làm bánh tráng. Nhưng giấy tại Giao Châu mềm và bền hơn.  Thế kỷ thứ 10, thương thuyền Á Rập, bắt cóc được một người Giao Châu đem về để dạy nghề làm giấy, từ đó kỷ thuật làm giấy tại các nước Á Rập phổ biến sang  Tây Phương.
Năm quyển sách văn thơ trong Kinh Thánh gồm: Gióp, Thi Thiên, Châm Ngôn, Truyền Đạo và Nhã Ca.
Tương truyền chương Nhã Ca của Vua Salomon, nhưng có lẽ là những bài thơ vua Salomon ưa thích thì đúng hơn, vì các bài thơ tả tình yêu của một cô gái thành Jerusalem với một anh chăn cừu, và có đoạn tả vua Salomon, lẽ nào vị vua lại tả mình.  Chương Nhã ca gây rất nhiều tranh luận, và làm khó chịu các nhà tu hành Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo. Vì sao một quyển sách nhỏ thơ dâm tình, hay mỹ tình dục lại lọt vào bộ sưu tập Thánh Kinh ? Có người cho rằng nó dùng để hát trong nghi lễ động phòng hoa chúc. Có người cho đó là tình yêu của Chúa với Giáo Hội, hay Chúa với dân tộc Do Thái. Tuy nhiên toàn bộ các bài thơ này không có câu nào cầu chúa, hay lời của chúa, mà chỉ nói chuyện tình yêu, tình dục tự nhiên, không theo phép tắc lễ nghĩa đương thời, nhất là luật Do Thái, trai gái giữ trinh tiết trước khi hôn nhân . Các bản dịch cố gắng giảm bớt những sống sượng, thay vì gọi là âm hộ thì gọi là cái rún hay ổ gà « Rún nàng giống như cái ly tròn, rượu thơm không có thiếu » Thánh Kinh, Nhã Ca tr 794 . Bài thơ thứ chín lược dịch động tác làm tình lộn ngược 6,9 : «  Và ổ gà mình như rượu ngon.. Chảy vào dễ dàng cho lương nhơn tôi. Và tuôn nơi môi kẻ nào ngủ. » Kinh Thánh, Nhã Ca 7 :6 trang 795.
Trong tiến trình văn minh của nhân loại, sau thời gian xuất hiện khoảng 5 triệu năm của con người, văn minh nhân loại chỉ xuất hiện mới khoảng 5000 năm với nền văn minh Ai Cập, từ ba ngàn năm nay sự tiến bộ nhân loại ngày càng nhanh chóng với sự ra đời các tôn giáo, chữ viết, các bộ sách, các trường ca, sử thi.. Các bộ tộc thành hình từ những đơn vị một vài chục ngàn dân, cai trị bởi một người có sức mạnh nên sống lâu hơn những người khác, thuở ấy nhân loại chỉ thọ trung bình khoảng 30 tuổi, nhưng thời ấy chưa phát minh ra số, các chữ viết con số có nguồn gốc tại Ấn Độ thời Đức Phật. Do đó trí nhớ người thời cổ đại trong Thánh Kinh Do Thái thường gán cho họ sống 400, 500, 200 năm, ông Bành Tổ của Trung Quốc sống đến 900 năm. Yahvé của dân tộc Do Thái có nguồn gốc là một thầy mo, thầy phù thủy, thầy đồng bóng, hay còn gọi là tiên tri,  lãnh tụ của bộ tộc tương tự như vua Hùng Vương của  Việt Nam ta,  có nguồn gốc là một người có sức mạnh giết được con cá sấu hung dữ (đánh thủy quái), chặt được cái cây to lớn (đánh mộc tinh), đánh bẩy được con cáo khôn ngoan phá hoại mùa màng (đánh hồ tinh).. được dân chúng kính phục tôn làm lãnh tụ. Các « tiên tri » làm được các phép lạ, biết dùng cây cỏ chữa bệnh, biết dùng phân dơi làm nổ, bốc cháy hay học được phép đi trên lửa, cầm than hồng trên tay,  chạy phóng nhanh trên núi, chạy lướt trên nước (điều này không lạ với sự luyện tập phái võ Thiếu Lâm, hay các nhà sư Tây Tạng..) Tiên tri, thầy mo, thầy phù thủy, ông đồng, bà bóng có mặt khắp các nền văn minh, nối dây liên hệ giữa người sống và người chết. Ngày nay chúng ta nhìn với cặp mắt hiện đại nhìn việc « lên đồng » là « mê tín », nhưng lên đồng có một vai trò rất quan trọng trong lịch sử văn minh con người. Vì bản năng con người do sự chống chọi với thiên nhiên, bảo vệ sinh tồn của mình nên rất hiếu chiến, hiếu chiến với các bộ lạc khác, và hiếu chiến cả với những người lân cận, người lên đồng dựa trên sự quan hệ với thần thánh, để thiết lập sự cai trị.  Ở vùng cận đông gọi là các nhà tiên tri, họ là người tự nhận có năng khiếu mặc khải được với thần thánh. Họ là người duy nhất tiếp xúc được với thần thánh, sau một nghi lễ cúng tế múa may, thần nhập vào họ phán truyền. Những điều được xem là lời Chúa, lời Yahvé, truyền qua lời các tiên tri. Ở Hy Lạp nên văn minh tiến xa hơn, nơi đầu tiên hình thành các khoa học,  họ xem « lên đồng » là nguồn gốc của kịch nghệ, người kịch sĩ viết kịch nhập vai nhân vật, và họ đùa bởn cả với các thần thánh Hy Lạp. Trong Odyssée của Homère có đoạn biểu diễn một vở hài kịch thần Vệ Nữ ngoại tình với thần Chiến tranh, bị chồng là Thần Hoả Thái làm máy bẩy trên giường bắt nhốt hai thần dính vào nhau không cục cựa được, phải nhờ các thần khác hoà giải, bảo lãnh mới được tha.
Trong buổi bình minh con người, người tiên tri «  lên đồng » thiết lập trật tự trong cộng đồng : Ví dụ Anh A đánh anh B mù mắt, hay gảy răng, qua hôm sau anh B trả thù, ăn gan, uống máu anh A, bỏ anh A vào nồi nấu, hay « xơi tái ». Các sự kiện này vẫn còn xãy ra ở các bộ tộc các đảo Thái Bình Dương, hay Châu Phi cách đây vài chục năm. Làm thế nào để người tù trưởng thiết lập luật lệ :   Anh A đánh B mù con mắt, thì B chỉ có quyền đánh A lại mù mắt. A đánh B gảy răng, thì B đánh A lại gảy răng không có quyền bỏ A vào nồi ăn thịt. Tù trưởng mà ăn nói lơ mơ, có khi B sẽ ăn thịt cả tù trưởng. Để thiết lập uy quyền tù trưởng, ban đêm đốt lửa lên đồng, uống rượu hay dùng các cây cỏ kích thích, nhảy múa và đóng kịch : Thần Yahvé hiện ra phán rằng : « A đánh B đui một mắt, thì B đánh lại A đui mắt, A đánh B gảy răng thì đánh lại nó gảy răng, mi ăn thịt nó sẽ bị Yahvé trừng phạt móc cổ mi ói mửa ». Yahvé là thần khai sáng cả vũ trụ, sanh ra muôn loài, chúa tể vũ trụ, chẳng ai biết ; nhưng ói mửa là việc có thật do ăn thịt sống không tiêu, nên rạp mình cầu xin Yahvé tha tội, và được tiên tri  cho cây lá chữa bệnh. Tấm gương B bị Yahvé trừng phạt được loan truyền thế là luật : « mắt thay mắt, răng thay răng » được thiết lập.
Yahvé xuất thân là người thủ lãnh có làm nhiều điều tốt, dân chúng nhớ ơn, nên các đời sau khi có điều gì khó khăn đều lên đồng, cầu Yahvé qua miệng người tiên tri phán xét : Kinh Ê sai, Thánh Kinh trang 800 3 :16 ta nghe lời lẽ một người «  lên đồng » mắng các cô gái Si ôn lẵng lơ :
« Đức Giê hô va phán rằng :
« Vì những con gái Si ôn kiêu ngạo, ngóng cổ bước tới, liếc mắt trêu ngươi, vừa đi vừa ỏng ẹo, vừa khua động tiếng dưới chơn, nên Chúa sẽ làm cho đỉnh đầu con gái Si ôn đóng vẩy và Đức Giê hô va sẽ lột truồng chúng nó. »
Thời cổ đại, vùng Sion ít sông suối các cô gái ít tắm gội, tóc dài trùm khăn kín cả người, bị gàu đóng vẩy trên đầu, ngứa ngáy. Quen trùm khăn đen cả người chỉ thấy có hai con mắt, bị Yahvé doạ lột truồng là một « hình phạt khủng kiếp ». Chương Khải Huyền nói về tận thế chúng ta thấy tiên tri hay người lên đồng dùng ma túy kích thích, nên hình ảnh chập chờn, nói lên những lời siêu thực.
« Đoạn, tôi thấy ở dưới biển lên một con thú có mười sừng, bảy đầu, trên những sừng có mười cái mão triều thiên và trên những đầu có danh hiệu sự phạm thượng. Con thú tôi thấy đó giống như con beo, chơn nó như chơn gấu, miệng như miệng sư tử và con rồng đã lấy sức mạnh, ngôi và quyền phép lớn mà cho nó… » Khải huyền 12.12 tr 318.
Đồng thời với Thánh Kinh, trong Truyện Thơ Odyssée của Homère, Ulysse, vua một bộ tộc Hy Lạp đảo Ithaque cũng cầu tiên tri Tirésias để báo cho các biến cố sắp đến, và gặp lại mẹ đã mất, cũng như gặp lại hồn các phu nhân, các anh hùng Hy Lạp. (Xem  Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh. Truyện Thơ  Odysée. Thi hào Homère qua 12110 câu thơ lục bát. Khuê Văn Paris 2005 ; tr 85-195.)
Trong Sử thi Iliade, tiên tri Calchas đi theo đoàn quân đánh thành Troie, khi khai quân, khi có trận dịch, hay khi có điềm chim trời, thường cầu đảo, cúng tế để tìm ra câu giải đáp : (Xem Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh. Sử thi Iliade Thi hào Homère qua 16933 câu thơ lục bát. Khuê Văn Paris 2009.)
Thời thượng cổ, con người sống rất đơn sơ. Người ta chỉ biết có mẹ, mà không biết có cha. Loài người còn sống trần truồng sống hái lượm cây trái trong rừng, sau khi ăn xong bên đống lửa thì thích ai làm tình nấy, nên không biết ai là cha. Dần dà việc săn thú ăn thịt làm bộ óc con người phát triển hơn, đàn ông đi săn trở nên có sức mạnh họ dành riêng những người đàn bà cho mình. Nhưng loài người vẫn còn đa thê, đàn ông nhiều vợ. Từ đó mới có tình yêu nam, nữ. Đến  Đức Jésus dạy dỗ gia đình chỉ một nam, một nữ và tình thương yêu và gia đình, một tiến bộ nhân bản của nhân loại. Giá trị đó ngày nay trở thành luật lệ và đạo đức cho toàn nhân loại. Và ngày nay chúng ta dùng giá trị đó để phát xét lại các thời đại trước.
Bản năng con người có nhiều động thái súc vật, tiềm ẩn, không chỉ tham sân si, mà còn dục vọng, thích ăn thịt người, thích dâm dục. Một vị Tổng Giám Đốc ngân hàng quốc tế FMI, tài giỏi biết bao, dân chúng Pháp sẵn sàng bầu làm Tổng Thống, thế mà không kiềm chế nổi cái dục, để cô bồi phòng xấu xí kiện cáo, thế là sự nghiệp tan tành ra mây khói. Một quan tòa, đang giữa phiên toà bổng rơi vào tình trạng mất trí, ngồi thủ dâm. Một sinh viên tiến sĩ Nhật du học tại Pháp, con một nhân vật quan trọng Nhật Bản, ăn thịt một cô bạn người Hoà Lan tại Paris. Một thanh niên người Đức tìm người để ăn thịt trên internet, thế mà cũng có người tìm đến để được ăn thịt.. Không phải chuyện cách đây hai ba ngàn năm mà là chuyện trong thế giới hiện đại.
Nghi lễ ăn mình Chúa, uống máu Chúa trong Thiên Chúa Giáo, đáp ứng được nhu cầu bản năng con người thời nguyên thủy  còn tồn tại trong mỗi cá nhân, thích ăn thịt uống máu lẫn nhau. Chương Nhã Ca trong Thánh Kinh đáp ứng nhu cầu thích nói chuyện dâm tục trong mỗi con người, người nông dân gặp nhau sau vụ gặt, nói chuyện với nhau rồi cũng đem chuyện dâm ra đùa bởn, ngày nay bạn bè cũ lập lại thành một mạng trên internet, trao đổi nhau thế nào cũng có những chuyện cười dâm tục. Chương Nhã Ca trong Thánh Kinh đáp ứng nhu cầu tiềm tàng dâm tục của con người.
Trong các tác phẩm dân ca văn chương của người da đỏ tại Mễ Tây Cơ, Péru.. họ mô tả cảnh làm tình, tinh trùng bắn tung tóe vào mặt rất tự nhiên. Tại Ấn Độ những đền tháp Khajuraho  đầy tượng điêu khắc cảnh làm tình tập thể, người lớn với con nít, trai gái lẫn lộn cả cảnh ngựa với người, voi với người thật  hổn loạn, làm cho người nhìn cho đã đời no nê cái bản năng dâm tục tiềm ẩn trong mỗi người.
Thiên Chúa Giáo có nguồn gốc từ Do Thái Giáo, Chúa Jésus giảng dạy những điều không ngoài bộ sách này, nhưng bản tính cương trực, đuổi các người buôn bán thần thánh ra khỏi nhà thờ, nên không được các lãnh đạo Do Thái Giáo đương thời chấp nhận, nên họ vu cáo là “cách mạng” chống chính quyền đô hộ của La Mã đương thời. Chúa Jésus bị bắt và xử tử đóng đinh năm 33 tuổi. Các môn đệ bị truy lùng với lòng mơ ước Jésus không chết, còn sống sẽ trở lại, phải lẫn tránh đi khắp nơi để truyền đạo qua khắp các nước Cận Đông, họ bị bức tử, cấm đạo khắp nơi, người ngoài dân tộc Do Thái ngày một nhiều và biến thành một tôn giáo cả hoàn cầu. Nhưng tôn giáo này  vẫn giữ bộ sách nguyên thủy làm sách duy nhất của dân tộc Do Thái giảng dạy ngày nay gọi là Cựu Ước và Tân Ước gồm 27 quyển  là 4 môn đệ kể chuyện Chúa Jésus và lời Thánh Paul được xem là người tổ chức sáng lập tôn giáo. Khác với các kinh điển đạo Phật, đạo Khổng chỉ dạy lời đạo đức ; Quyển Cựu Ước kể trong sách tất cả những xấu xa, tội lỗi của cuộc đời : chuyện anh em giết nhau, cha lấy con loạn luân, thành Sodome làm tình hổn loạn, con người thờ tiền bạc, thờ bò.. Bản chất con người là tội lỗi, chỉ Yahvé  mới cứu được con người.
Bản dịch Thánh Kinh đầu tiên được các vị Thừa Sai Bồ Đào Nha và Pháp  soạn thảo tại Việt Nam từ thế kỷ 17, các vị thừa sai ngoại quốc mới học tiếng Việt vài ba năm nên dịch kinh lời lẽ ngây ngô. Người đọc không thông, không hiểu Nhã Ca nói gì, chữ nghĩa chập chờn kỳ quái, lại thêm các giống cây cỏ, hương liệu, hình ảnh sa mạc, đàn dê, đàn cừu, các địa danh Do Thái  tiếng Việt không có, phải Việt hóa ra sao ? Ta thử đọc một đoạn:
“Nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người.
Vì ái tình chàng ngon hơn rượu,
Dầu chàng có mùi thơm tho;
Danh chàng thơm như dầu đổ ra;
Bởi cớ ấy các gái đồng trinh yêu mến chàng.
Hãy kéo tôi; chúng tôi sẽ chạy theo chàng.
Vua đã dẫn tôi vào phòng Ngài.
Chúng tôi sẽ vui mừng và khoái lạc nơi chàng.”
Đoạn thơ tả cô gái xinh đẹp cái gì cũng sánh đôi không gì riêng lẻ (Chacun a sa jumelle et nulle n’en est privée): hai gò má, hai cái môi, hai cái vú thì lại hiểu lầm là con cừu thảy đều sanh đôi, không con nào son sẻ:
Hỡi bạn tình ta, nầy mình đẹp đẽ thay , mình đẹp đẽ thay !
Mắt mình trong lúp giống như mắt bồ câu;
Tóc mình khác nào bầy dê nằm nơi triền núi Ga -la –át,
Răng mình như thể bầy chiên mới hớt lông,
Từ ao tắm rửa đi lên,
Thảy đều sanh đôi, không một con nào son sẻ.
Môi mình tơ sợi chỉ hồng,
Miệng mình có duyên thay,
Má mình trong lúp tợ như nửa quả lựu.
Cổ mình như tháp Đa vít, xây cất để treo binh khí,
Ngàn cái khiên treo tại đó, là các khiên của tay anh hùng.
Hai nương long mình như cặp con sanh đôi của hoàng dương,
Thả ăn giữa đám hoa huệ. “
Câu: Mon bien aimé est frais et vermeil  (Người yêu tôi tươi mát và hồng hào) dịch thành : Lương nhân tôi trắng và đỏ.
Tóm lại hàng bao nhiêu năm qua, bao triệu người Việt Nam đọc bản Nhã Ca, Kinh Thánh mà chẳng ai hiểu gì cả ! Hiểu trật và dịch trật từng câu. Nêu hết các câu trật có người lại hiểu lầm là chống lại thánh kinh, lỗi đức bác ái. Bao năm qua hàng trăm vị linh mục, mục sư được du học, đỗ Tiến Sĩ Thần Học, nhiều vị sáng suốt đã thấy khuyết điểm này, nhưng lại bị kẹt giữa vấn đề làm linh mục, mục sư mà phải dịch những đoạn thơ đầy dục tình, tả thân thể người con gái, tả việc làm tình thì  “tội nghiệp” cho chức vị linh mục. Các vị giỏi tiếng Pháp thì tiếng Việt lại không rành, không biết làm thơ Việt. Người biết làm thơ lại không rành tiếng Pháp, thì nói chi phải tham khảo bằng tiếng Do Thái và từng đi qua vùng này để thấy cây cỏ, khí hậu. Vấn đề khó khăn là phải dịch làm sao cho thấy cái tình yêu thanh tao, trinh khiết của đôi trai gái mà không sa vào dâm tục. Từ tình yêu vùng sa mạc xứ nuôi dê, cừu, chuyển vào Việt Nam đã thấm nhuần đạo đức Phật Giáo, Khổng Giáo  mà không thấy chướng tai, gai mắt.
Những điều ngày xưa, xem là thiêng liêng không ai dám đụng đến đều được các nhà khoa học, các nhà chuyên môn đem ra khảo sát.  Thời Trung Cổ, quyển Kinh Thánh chỉ dành riêng cho các linh mục, đọc và diễn giảng cho tín đồ. Từ thế kỷ 15 đạo Tin Lành ra đời chủ trương mọi tín đồ đều đọc được Kinh Thánh. Ngày nay thì ai cũng có thể mua Kinh Thánh để đọc để biết trong Kinh Thánh viết gì ?. Chương Nhã Ca trong Thánh Kinh người Do Thái  không phải là lời Chúa mà chỉ là một tác phẩm văn chương. Cái hay cái đẹp của tác phẩm này phải được dịch ra để người Việt Nam hiểu rõ, để thưởng thức, không thể để tác phẩm trong mơ hồ, xem sự mơ hồ là siêu việt, thiêng liêng người nào không hiểu cái siêu việt đó là dốt thì cũng giống như chuyện ông vua ở truồng của Anderson, bị lường gạt bởi hai tên gian manh là mặc bộ áo trí tuệ, người thông minh mới thấy. Vua không hiểu nhưng sợ mình dốt nên hãnh diện trong sự trần truồng của mình, quần thần nịnh bợ ca tụng là vua mặc áo trí tuệ, thi sĩ tâng bốc áo người đại trí, dân chúng sợ hải uy quyền không dám nhìn và cứ thế vua trần truồng nhỡn nhơ đi kiệu cả ngày trong thành, cho đến khi một em bé cất tiếng : « Vua trần truồng như nhộng », thì vua và mọi người mới tỉnh thức.
Kinh Kim Cương Phật Giáo được Bảng Nhản Lê Quý Đôn ca tụng không tiếc lời, nhưng thi hào Nguyễn Du đọc nghìn lượt vẫn thấy : Những ý nghĩa gọi là sâu xa trong đó phần nhiều không rõ ràng và quan niệm rằng Nghìn lời lưu lại ích chi, chỉ để bọn ngu tằng đời sau đọc điếc tai người ta. Không ai cho rằng Nguyễn Du phản đạo, phá hoại đạo, ma quỷ xúi dục, mà mọi người đều đồng ý với Nguyễn Du. Kinh điển, văn chương, thi ca  cũng phải rõ ràng, để ai cũng hiểu được, nếu mọi người  không hiểu thì lẽ vì đâu ? Nhiệm cụ của dịch giả, của nhà văn, nhà phê bình, nhà nghiên cứu phải làm sáng tỏ. Bản dịch Nhã Ca được các vị thừa sai thiếu trình độ dịch thuật, chữ nghỉa lủng củng, câu cú không thông, cần phải được dịch lại.
Giáo Sư Đào Mộng Nam cũng đã dịch chương Nhã Ca và in thành sách tại California nhưng bản dịch vẫn chưa đáp ứng lại điều mong muốn. Tôi đã từng học Hán Văn với GS Long tại Hội Khổng Học Sài Gòn,  năm 1967.
Tôi có hai người bạn rất thân là: Giáo Sư Võ Thu Tịnh, tác giả các sách Giáo Khoa Việt Văn Trung Học, từng là môn sinh của Giáo Sư Nghiêm Toản tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Giáo sư Tịnh giảng dạy Văn Chương Việt Nam đào tạo các mục sư Tin Lành tại Hải Ngoại  và Giáo Sư Tiến Sĩ Phạm Đán Bình, linh mục dòng Xuân Bích Saint Sulpice, phụ trách Ban Việt Học. Trường Ngôn Ngữ Phương Đông, Viện Đại Học Paris VII.
Biết tôi ngoại đạo nhưng đã có kinh nghiệm dịch thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du và mười năm dịch Odyssée và Iliade, 30 000 câu thơ ra thơ lục bát, tác phẩm nổi tiếng khó dịch thơ nhất của nhân loại, hai vị tặng cho tôi các quyển Thánh Kinh Pháp và Việt và nhờ tôi làm công việc khó khăn này. Theo hai vị thì sách Nhã Ca khó dịch nhất, và dịch thành thơ Việt thành công  thì xưa nay chưa ai làm được. Và sau đây là bản dịch của tôi: theo La Bible de Jérusalem. Eds du Cerf & Desclée de Brouwer Paris 1999, và quyển Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. United Bible Societies in tại Đại Hàn năm 1994. Ngoài ra tôi còn tham khảo La Bible . Nouvelle traduction Bayard 2001 và Ancien Testament. Traduction œcuménique de la Bible. Eds Cerf. 1977. Các sách này dễ dàng có được nên  bài viết này lược bớt phần trích dẫn bản dịch tiếng Pháp, tiếng Anh, để nguyên tác chữ Do Thái thì cũng chẳng ai đọc được.
Tiếc thay lúc hai vị nhờ tôi, thì tôi đang bận phải hoàn tất hai quyển Odyssée và Iliade ra thơ lục bát và bận soạn quyển Tự Điển Tình Yêu bằng thơ tình Xuân Diệu mà nhà thơ Xuân Diệu ký thác tôi toàn bộ di cảo từ năm 1981. Bây giờ tôi dịch xong thì GS Võ Thu Tịnh và LM Phạm Đán Bình đã qua đời hai năm rồi. Bản dịch này để tưởng nhớ hai người bạn vong niên thân thương.
Mục đích bản dịch này, là mong chuyển được cái hay cái đẹp của thi ca cổ đại Do Thái  ra Việt ngữ, để mọi người Việt Nam thưởng thức. Và bác bỏ cái thần thoại, hiểu theo nghĩa nông cạn đây là lời Chúa phán truyền, tự tay Chúa hay sai các tiên tri chép ra, mà phải hiểu và đặt câu hỏi : vì đâu con người thích hướng đến cái đẹp, cũng như cái chân, cái thiện. Cái đẹp nó tồn tại từ ba ngàn năm qua. Người dịch giả không chịu được những câu thơ xấu xí, thô kệch, hiểu sai làm cho một áng văn kiệt tác bị vùi vào vũng bùn. Người Hồi Giáo gọi cái đẹp là Thượng Đế, người Thiên Chúa Giáo gọi tình yêu là Thượng Đế. Cái cao vời tuyệt diệu nằm trong đó. Chứ không phải là một chương, một quyển sách nhân danh là của Thượng Đế.

NHÃ CA
Nhã ca của vua  Sa–lô–môn
bản dịch của  TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
DẠO KHÚC
NGƯỜI YÊU NỮ                               Môi uống làn môi say rượu đào,
Tình chàng mơn trớn rượu thanh tao ;
Danh chàng như tựa dầu hương đổ,
Bao gái xuân thì yêu xuyến xao .

Kéo bước em đi, chân chạy nhanh,
Quân vương đưa gót đến cung phòng ;
Là cả niềm vui và lạc thú,
Dâng hiến yêu đương chén rượu nồng.
CHÚ THÍCH :
Le Cantique des Canthiques : có nghĩa le chant des chants, bài hát hay nhất trong những bài hát. Đây là những bài hát hay nhất của vua Salomon. Vua Salomon ngày xưa có một harem, rất nhiều vợ. Điều này khác với Chúa Jésus chủ trương một vợ. Salomon có nghĩa là Thái Bình.
Gái xuân thì : gái đến tuổi lấy chồng, có con , nhưng chưa có.

TÌNH KHÚC THỨ NHẤT

NGƯỜI YÊU NỮ :             Em gái Giê ru sa lem, xinh đen da,
Như lều Quế Đa, màng San Ma ;
Mặt trời rạm nắng màu da mật,
Chớ có nhìn em vì màu da.

Các anh trai đã giận gì tôi ,
Bắt giữ vườn nho dang nắng trời,
Và tôi chẳng giữ,
Mảnh vườn tôi !

Chàng của lòng em hãy nói đi :
Từ phương nào đến, chàng chăn bầy ;
Nơi đâu chàng nghỉ trời  trưa bóng ?
Em biết tìm chàng, chẳng lạc đây !
Gần bên bầy thú, bạn sum vầy.
HỢP XƯỚNG                     Hỡi chàng có biết một cô gái xinh,
Lần theo bầy thú, theo bước chân ;
Theo chàng theo dấu bầy dê bước,
Bên lều mục tử đã lên gần.
NGƯỜI YÊU NAM           Hỡi người tình xinh
như ngựa xe Ai Cập Vương,
Cổ ngọc trân châu đẹp tuyệt trần ;
Giữa vòng bạc, má xinh hồng thắm,
Anh sẽ cho em bạc vàng vòng.
CÙNG HÁT                         Khi Quân Vương ngự dự tiệc trần,
Hương sắc lòng tôi tỏa hương xuân,
Người yêu tôi đóa hoa mộc dược,
Ngủ giữa lòng tôi đôi vú căng.
Người yêu tôi tựa chùm hoa phượng,
Trong Suối Dương  vườn nho xanh.

Người anh yêu hỡi, em xinh lắm,
Đôi mắt em xinh
Như bồ câu.

Người em yêu hỡi trai thanh lịch,
Giường chúng ta xanh  màu lá xanh.
Sườn mái nhà ta bằng gỗ bách,
Vách ván tường ta bằng gỗ tùng.
Tôi đóa thủy tiên vùng Sa Long ,
Là hoa huệ chốn thung lũng xanh;
Người tình ta giữa bầy xuân nữ,
Như đóa huệ thơm giữa gai đồng.
Như cây táo giữa vướn cây lá,
Bạn tình ta giữa trai thanh xuân.

Trong bóng chàng tôi ngồi lòng vui,
Trái chàng dịu ngọt cung tình tôi;
Chàng đưa tôi đến phòng tiệc yến,
Tình yêu cờ xí  lộng trên người.
Nâng lấy lòng tôi như bánh nho,
Hồi sinh tôi với trái thơm tho;
Vì tôi nhuốm bệnh đau tình ái,
Tay trái chàng nâng lấy đầu tôi,
Tay phài chàng ôm xiết người tôi.

Tôi van xin
Các nàng xuân nữ Giê ru sa lem,
Bằng gót chân hoảng chân nai đồng nội,
Chớ làm kinh động, đánh thức ái tình ta,
Trước giờ hoan lạc.
CHÚ THÍCH
Đen da: cô gái không phải da đen như người Nam Phi Châu,  mà da rạm nắng vì phơi nắng, giữ vườn nho.
Lều Quế Đa cung San-Ma :  tentes de Qédar, rideaux de Salomon,  Lều bằng da dê màu đenhình ảnh tương phản với cô gái đen sạm nắng và đẹp.
Tình yêu: trong tiếng Do Thái chơi chữ: vuốt ve và yêu mến có nghĩa là tình yêu.
Giê ru sa lem : Jérusalem, Kinh đô nước Do Thái, theo các nhà khảo cổ, cách đây 3000 năm chỉ có khoảng 15 000 dân.
Ai Cập Vương : Pharaon, Vua Ai Cập.
Gỗ bách, gỗ tùng: ta có thể hiểu hai người gặp nhau trong thiên nhiên lá xanh dưới gốc cây bách Ly Băng tán rất rộng như sườn nhà, và rừng cây tùng như vách chung quanh.
Suối Dương : En-Gaddi có nghĩa là suối các con hoảng, con dê.
Thủy tiên: có bản dịch là hoa hồng.
Sa Long : Saron vùng đồng bằng ở phía nam Carmel.
Cây táo : Chàng như cây táo , giữa các cây lá không mùi vị, không ăn được, cây táo có vị thuốc kích dục.

TÌNH KHÚC THỨ HAI

NGƯỜI YÊU NỮ               Tôi nghe tiếng người yêu.
Kìa chàng đã đến,
Băng qua núi,
Vượt qua đồi.
Chàng như con hoảng
Con nai khỏe.
Chàng sau song cửa
Sau tường vôi.

Chàng đã cất lời nói với tôi :
Đứng dậy em yêu, bước đi thôi,
Vì mùa đông đã qua rồi nhỉ ?
Mưa chẳng còn đâu mưa dứt rồi.
Ngàn hoa đã nở trên mặt đất,
Mùa hát hội vui đã đến gần ;
Tiếng chim cu gáy vang trời đất,
Cành vả nụ đầy, nho trổ bông.
Đứng dậy em yêu,
Dời bước chân.

Em yêu dấu, bồ câu trong hốc đá,
Còn thẹn thùng ẩn lánh sườn non cao.
Hãy cho anh em gương mặt em nào,
Hãy cho anh nghe tiếng em khẽ nói.
Vì tiếng nói em êm ru,
Trên khuôn mặt quyến rũ.

Hãy bắt giùm chúng tôi những con chồn,
Những con chồn nhỏ phá nho vườn,
Vì vườn nho chúng tôi hoa nở.

Em thuộc về anh, anh thuộc về em,
Như mục tử chăn bầy giữa đồng hoa huệ.

Trước khi gìó mát rạng đông,
Xua tan bóng tối.
Đến đây em, cùng bước,
Em yêu dấu ơi,
Như chân hoảng, chân nai,
Trên núi đồi Bê Thiết.
CHÚ THÍCH:
Song cửa: chàng trai đứng ngoài song cửa, không vào nhà vì muốn cô gái theo chàng ra ngoài.
Con chồn: Chơi chữ tiếng Do Thái:” Chồn” nghĩa là “ đào lổ”, “phá” nghĩa là “có thai”. Khu vườn là cô gái. Nghĩa bóng nguyên câu là chàng trai “đào lổ”, làm cho cô gái có thai.
Bê Thiết: Bètèr: nơi không rõ, nhưng có nghĩa là chia hai, chia phân, từ giả. Nghĩa cuối cùng bài thơ là chia tay và hẹn gặp lại tối nay.

TÌNH KHÚC THỨ BA

Nằm trên giường suốt đêm,
Tôi chờ người lòng tôi yêu mến,
Tôi  chờ nàng  mà chẳng thấy nàng.
Tôi chổi dậy, lang thang khắp phố,
Trên những con đường, trên những công trường.
Tôi kiếm mãi, người lòng tôi yêu mến,
Tôi kiếm hoài mà chẳng gặp nàng.
Những kẻ canh tuần
quanh thành tôi gặp :
Các anh có thấy người yêu tôi chăng ?
Họ vừa đi khỏi,
Tôi đã gặp người lòng tôi yêu mến,
Tôi nắm lấy nàng không thể buông ra,
Tôi đưa nàng bước trở lại nhà,
Ngôi nhà mẹ tôi đã hoài thai tôi đó.
NGƯỜI YÊU NAM           Tôi van xin
Các  xuân nữ Giê ru sa lem,
Bằng bước chân hoảng, chân nai đồng nội,
Chớ kinh động, chớ thức giấc ái tình ta,
Trước giờ hoan lạc.

TÌNH KHÚC THỨ TƯ

HỢP XƯỚNG                     Người là ai từ sa mạc đi lên,
Như làn khói
Hương dược thảo, trầm hương ,
Và tất cả hương thơm xứ lạ.

Kìa kiệu vua Sa lô môn,
với sáu mươi hộ vệ,
dũng sĩ  Y sơ ra el,
điêu luyện trong gươm kiếm,
lão luyện trong đánh giặc,
gươm mang bên mình,
phòng bất ngờ đêm tối.

Vua Sa lô môn
Chế cho mình chiếc kiệu,
bằng gỗ trắc Ly Băng,
cán ngù trụ bạc,
lộng gấm thêu vàng,
ghế dựa nhung tím,
Thêu với tấm lòng,
Bao xuân nữ  Gê ra sa lem,

Hãy đến chiêm ngưỡng,
hỡi các thiếu nữ Si ôn.
Vua Sa lô môn
với vương miện
bà Thái Hậu tấn phong,
Trong ngày hôn lễ,
Ngày vui trái tim ngài.

CHÚ THÍCH :
Sa lô môn : Vua Salomon
Y so ra ên : Israël, người Do Thái.

TÌNH KHÚC THỨ NĂM

NGƯỜI YÊU NAM           Bao xinh đẹp hỡi em yêu dấu  !
Hỡi em yêu xinh đẹp biết chăng!
Đôi mắt bồ câu sau làn tơ mỏng,
Suối tóc chảy dài như đàn sơn dương lượn
sườn núi Ga Lăng.
Răng em trắng như bầy cừu mới hớt.
Từ suối tắm em lên.
Từng đôi song song,
Chẳng gì riêng lẻ.
Đôi môi em sợi chỉ hồng rạng rỡ,
Và lời em dịu ngọt êm đềm.
Má hây đỏ nửa đôi thạch lựu,
Sau làn khăn tơ.
Cổ em vững như tháp lầu Đa Việt.
Tóc cuộn tròn ngàn chiếc khiên treo,
Khiên của bao dũng sĩ mến yêu.
Đôi vú em đôi nai con hồng phấn;
Song sinh một nai tơ,
giữa cánh đồng hoa huệ.

Trước gió nhẹ ngày lên,
thổi tan bóng đêm,
ta sẽ đến núi phương quế,
và đồi trầm hương.

Em xinh đẹp biết bao hỡi em yêu dấu,
Chẳng chút bụi nhơ !
Hôn thê ơi, hãy đến cùng ta từ Ly Băng,
Đến từ Ly Băng em bước vào.
Ngước mắt nhìn đỉnh Ái Sơn cao,
Đỉnh Sa Niên và Hạc Môn,
Hang loài sư tử,
Rừng núi loài beo.

Em đã mang hồn ta đi mất,
Hỡi em yêu và hỡi người yêu.
Một thoáng nhìn ta trong mắt,
Một vòng kiềng cổ yêu kiều.
Tình em đó biết bao là yêu dấu,
Hỡi em yêu và hỡi người yêu.
Tình ái em rượu nồng ngào ngọt,
Hương thơm em hơn tất cả các mùi hương;
Môi em yêu, hỡi người yêu dấu,
Mật ngọt khiết trinh,
Dưới lưỡi là sữa mật.
Và hương y trang em
Như hương vị Ly Băng.

Em là một vườn tình kín cổng,
Hỡi em yêu và hỡi người yêu.
Vườn kín cổng,
Suối nguồn khóa chặt ;
Nước mát phun tưới thạch lựu trong vườn.
Với biết bao trái thơm ngào ngọt.
Chùm nho mộng và cam vàng óng,
Mía ngọt ngon và bưởi chín thơm.
Và biết bao cây nhựa hương,
Trầm hương, kỳ nam
Thanh khiết mùi thơm.
Suối các khu vườn,
giếng nguồn sống động
róc rách từ Ly Băng !
NGƯỜI YÊU NỮ               :              Hỡi gió bấc, hãy vươn mình trổi dậy,
Hỡi gió nam, hãy đến dịu êm!
Thổi qua vườn tôi,
Cho hương tỏa êm đềm,
Người yêu dấu bước vào vườn rộng,
Và môi cắn trái thơm chín mộng.
NGƯỜI YÊU NAM:          Tôi bước vào vườn,
Hỡi em yêu và hỡi người yêu,
Gặt hái hương hoa nồng thắm,
Ăn trái ngon, mật ngọt trên cành.
Uống rượu ta và sữa của ta.
HỢP XƯỚNG                     Hỡi bạn hữu hãy cùng nhập tiệc,
Hãy say sưa này các bạn thân yêu.
CHÚ THÍCH:
Ga Lăng:   Galaad ở phía đông Jourdain, gần Yabboq.
Tháp Đa Việt: Tour de David  tiếng Do Thái  talpiyoth, viết giống như chữ  người yêu.
Ly Băng: Liban. Ái Sơn: Amana. Sa Niên: Sanir. Hạc Môn : Hermon. Núi phía Bắc Palestine, Có bài thơ trong thần thoại cananéen, Thần mời thần nữ người yêu đi săn vùng này, nhưng vì không cẩn thận bị thú dữ giết chết. Trong đoạn thơ này ngược lại nhắc người yêu tránh xa nơi hiểm trở này.
Trong bản tiếng Pháp họ dùng các tên le roseau odorant, le safran, le cinnnamome.. nhiều loại trái cây tại Tây Phương thời xưa chỉ có táo, nho, lê, không có cam, mía, lựu.., bản tiếng Việt dịch hoa phụng tiên, cây cam tòng, xương bồ, nhục quế, lư hội, trái cây bên Tàu không chính xác, và cũng chẳng ai hiểu là cây gì.. Nhưng tại Do Thái lại có các trái cây như Việt Nam :  mía, cam, bưởi, mảng cầu, dưa hấu.. Tôi thay bằng các cây trái, hương liệu Việt Nam cho gần gủi.
Núi phương quế đồi trầm hương : tượng trưng cho hai cái vú thơm.
Em yêu : Ảnh hưởng Ai Cập, người vợ được chấp nhận như em người chồng.
Khu vườn : tượng trưng cho người yêu, sở hữu riêng của người chồng.

TÌNH KHÚC THỨ SÁU
NGƯỜI YÊU NỮ
Tôi đang ngủ, nhưng lòng tôi tỉnh giấc,
Nghe tiếng người yêu gõ cửa gọi rằng :
« Mở cửa cho anh, hỡi em yêu, bạn yêu,
bồ câu ta yêu, hỡi người tình tuyệt diệu.

« Đầu anh đầy sương móc,
Tóc thấm giọt sương đêm ; »
-« Em đã cổi áo
mất công em mặc lại ?
Em đã rửa chân rồi,
lại lấm bụi dơ . »
Người yêu tôi luồng tay qua song cửa,
Tôi xúc động vì chàng.
Tôi chổi dậy
để mở cửa cho người tôi yêu mến.
Nhưng bàn tay chỉ còn chút dư hương.
Trên ngón tay tôi mùi hương thanh khiết,
Trên chốt cửa nhà.

Khi tôi mở cửa thì người tôi yêu mến,
Đã giận dỗi quay lưng và đi mất đâu ?
Chàng bỏ đi và tôi hoảng hốt,
Tôi kiếm gọi  chàng mà chẳng thấy đâu ?
Lính tuần tiểu
Dang đi vòng quanh thành, gặp tôi,
Họ đánh tôi, họ làm tôi thương tích.
Họ lột áo choàng tôi,
Những kẻ giữ thành.

Tôi van xin
Hỡi các xuân nữ Giê ra sa lem
Nếu gặp được người tôi yêu dấu,
Hãy nói với chàng rằng :
Tôi mang bệnh tương tư.
CHÚ THÍCH :
Các khảo cổ ngày nay cho thấy nhà thời xưa rất nhỏ, nền đất, nên trước khi lên giường họ cổi áo và rửa chân.
Bài thơ  còn cho thấy, luật lệ thành Jeruselem ban đêm cấm phụ nữ ra đường một mình, ai bất tuân  lính canh bắt gặp bị cổi áo choàng đánh cho mấy roi.

TÌNH KHÚC THỨ BẢY

HỢP XƯỚNG                     Hỡi người anh yêu thương nhất trên đời,
Người xinh đẹp nhất trần đời.
Hỡi người em yêu nhất trên đời,
Ta thề nguyện yêu thương nhau mãi mãi.
NGƯỜI YÊU NỮ :             Người yêu em tráng kiện, hồng hào,
Nổi bật giữa vạn người.
Đầu chàng là vàng, vàng ròng,
Tóc chàng như tàu lá,
Sắc quạ đen tuyền.
Đôi mắt như bồ câu,
Bên bờ suối nước,
Tắm sữa bên bồn phun.
Đôi má chàng như luống hoa màu mở,
Khóm hoa ngát thơm.
Đôi môi chàng là hoa huệ,
Ngào ngọt hương tình.
Tay óng xuyến vàng long lanh hoàng ngọc Tất Xi
Ngực ngà khối chạm ngọc lam xanh biếc.
Trên bệ vàng ròng
Chân như trụ cẩm thạch.
Dáng chàng như dáng núi Ly Băng.
Chẳng gì bằng, chàng như cây tùng xanh.
Chàng nói lời êm dịu,
Nhân cách chàng đáng yêu .
Người yêu tôi, người chồng tôi thế ấy,
Hỡi các xuân nữ Giê ru sa lem.

HỢP XƯỚNG                     Em về đău, hỡi em yêu dấu ?
Xinh đẹp nhất trên đời.
Người em yêu đi về hướng nào em nhỉ ?
Chúng tôi sẽ tìm hộ giùm em !
NGƯỜI YÊU NỮ :             Người yêu em  đã đến khu vườn,
Mảnh đất hương hoa màu mở.
Chàng đứng giữa bầy thú trong vườn,
Để hái cành hoa huệ,
Em thuộc về chàng và chàng thuộc về em,
Như bầy thú giữa đồng hoa huệ.
CHÚ THÍCH :
Tất  Xi : Tarsis : pierres de Tarsis : topazes,  xuyến đeo tay bằng hoàng ngọc.
Nổi bật giữa vạn người : chàng hơn tất cả, ngay cả thần vùng cananéen,  chàng như pho tượng thần.
Mắt bồ câu : sữa trong bình có ý vòng trắng quanh mắt bồ câu.
Núi Ly Băng (Liban) có nghĩa là núi trắng. Mont-blanc

TÌNH KHÚC THỨ TÁM

NGƯỜI YÊU NAM :         Em xinh đẹp, như Tiên Sa người tình ơi !
Duyên dáng như Giê ru sa lem.
Đáng sợ khác chi một binh đoàn,
Quay mặt chớ nhìn anh,
Vì làm anh bối rối
Tóc em lượn như bầy sơn dương trên sườn núi Gia Lăng,
Răng em trắng như bầy cừu đi lên, mới tắm,
Tắt cả đều sánh đôi,
Chẳng gì riêng lẻ.
Đôi má em nửa đôi thạch lựu,
Sau tấm màn tơ.

Dù có sáu mươi hoàng hậu,
Tám mươi vương phi,
Và bao cung nữ trên đời,
Chỉ có bồ câu yêu thương của tôi,
Tuyệt vời.
Em là con một, mẹ sinh ra,
Người yêu em nhất sinh em ra.
Bao thiếu nữ thấy em đều xưng tụng,
Bao hoàng hậu, vương phi cũng tán dương.
Em là ai hiển hiện như hừng đông,
Đẹp như vầng trăng.
Rạng rỡ như ánh dương,
Đáng sợ như binh đoàn.
CHÚ THÍCH :
Tiên Sa : Tirça, thủ đô Do Thái đương thời, một tên khác của Jérusalem.
Bồ câu : người Do Thái, người Tây Phương  thường gọi người yêu mình là con bồ câu của tôi.
Đáng sợ như binh đoàn: Tương đương nghĩa trong tiếng Pháp: Elle est belle et terible : đẹp và kinh khủng.

TÌNH KHÚC THỨ CHÍN

NGƯỜI YÊU NỮ               Trong vườn hạnh đào chân em bước tới,
Ngắm nhìn thung lũng những chồi non,
Nhìn vườn nho lá mới xanh rờn,
Xem thạch lựu đỏ hoa chưa nhỉ ?
Nhưng em chẳng biết lòng em đã,
Bước lên xe An Mỹ – Nam  Di.
HỢP XƯỚNG                     Hãy về đây, hãy về đây hỡi nàng Sa La Mỹ
Hãy về đây, hãy về đây ta đã chờ trông.
NGƯỜI YÊU NAM           A!  hãy đến hỡi nàng Sa La Mỹ,
Như điệu múa trong hai ban hợp ca.
Chân em xinh mang hài công chúa,
Vòng vế em như chuổi ngọc,
bởi bàn tay nghệ sĩ  tuyệt vời.
Rốn  em như ly rượu ngọt,
Rượu chẳng hề vơi.
Mình em bồ lúa mạch,
Hoa huệ vây vòng quanh.
Đôi vú căng đôi nai con hồng phấn,
Song sinh một nai tơ.
Cổ em một tháp ngà,
Mắt em hồ Hải Thủy,
Bên cửa Bát Khuê Môn.
Mũi em tháp Ly Băng,
Hướng về thành Đa Mạc.
Trán em vời vợi núi Cát Môn.
Tóc bính tím hoa sim.
Gót quân vương quấn quít suối mây vương.
Em xinh đẹp, hỡi em quyến rũ,
Hỡi tình ta vui thú tuyệt vời.
Dáng em tựa bóng dừa xanh mát,
Và ngực em tròn trịa trái đôi.
Anh khẽ nói: anh sẽ trèo lên dừa ấy,
Vin lá cành,
ôm đôi trái thanh xuân.
Hơi thở em nhẹ nhàng như hương táo.
Anh uống ly rượu em, uống mãi rượu ngon,
Anh xiết chặt hình hài em yêu dấu,
Chảy trên môi em  giấc mộng say.
Anh thuộc về em yêu dấu,
Em bên anh trong khát vọng dâng đầy.
CHÚ THÍCH
An Mỹ Nam Di: Ammi nadiîb: nghĩa là trên chiếc xe của dân tộc kiêu hùng tôi.  Như Thượng Đế bởi dân Do Thái.
Điệu múa trong hai ban hợp ca: Điệu múa ngày cưới, hai người nhảy giữa hai nhóm, khi hát khi nhảy xoay vòng.
Rốn: dùng thay chữ âm hộ để tránh thô tục, đoạn trên rốn em như ly rượu ngọt, đoạn dưới, anh uống ly rượu em, uống mãi rượu ngon. Và người con gái cũng hôn say sưa cái người con trai và để  để chảy vào môi.
Đa Mạc: Damas, thủ đô dân Araméens ở Syrie
Cát Môn: Carmel: Cái mũi nhô ra ở Địa Trung Hải, còn có nghí là vườn nho nhỏ.
Tóc: nguyên tóc màu tím đen, tôi dùng màu tím hoa sim để Việt hóa.

TÌNH KHÚC THỨ MƯỜI

NGƯỜI YÊU NỮ                               Anh hãy đến hỡi anh yêu dấu,
Ta cùng đi đến chốn đồng xanh.
Chúng ta sẽ ngủ qua đêm trong những xóm làng,
Ngày mai đó ta sẽ đến cánh đồng nho trái.
Ta sẽ đi xem những chồi non mơn mởn,
Hoa có nở bông,
Thạch lựu vừa khoe đỏ.
Em sẽ cho anh ân huệ  tình yêu.
Cây táo tình yêu thoang thoảng mùi hương,
Và cạnh cửa nhà ta đầy trái ngọt;
Trái non, trái già,
Em dành hết cho anh hỡi em yêu dấu.

A !  em xem như anh,
Chung vú mẹ một bầu.
Gặp anh ở ngoài, em có thể ôm hôn anh,
Chẳng ai dị nghị tình em.
Em sẽ dắt anh, sẽ dẫn anh về,
Trong ngôi nhà mẹ, để anh dạy dỗ.
Em rót anh uống ly rượu ngọt,
rượu mùi thạch lựu của em.

Tay trái anh nâng lấy đầu em,
Và tay mặt anh ôm xiết em.
NGƯỜI YÊU NAM:          Tôi van xin,
Các xuân nữ Giê ru sa lem,
Chớ kinh động tôi, chớ thức giấc tình tôi,
Trước giờ hoan lạc.
CHÚ THÍCH :
Cây táo tình yêu : dịch từ cây mandragore, cây phong già, có đặt tính ăn vào có nhiều kích hích tăng trưởng sinh sản.

CHUNG KHÚC

HỢP XƯỚNG                     Nàng là ai đến từ sa mạc,
Đứng tựa vai người yêu tôi ?
NGƯỜI YÊU NỮ                               Dưới cây táo thơm tôi đánh thức chàng,
Nơi mẹ chàng đã hoài thai ra chàng,
Nơi hoài thai và nơi sinh chàng.
Hãy để em tựa chiếc ấn giữa lòng chàng,
chiếc ấn trên tay chàng.
Vì tình ái mạnh như cái chết,
Lòng đam mê cháy như địa ngục,
Sức nóng là ngọn lửa,
Ngọn lửa của thần sấm.
Nước bao nhiêu không dập tắt được tình yêu,
Không con sông nào cuốn trôi đi tình yêu.
Ai đem hết gia tài để mua tình ái,
Chỉ mua được khinh khi.

LẠI VIẾT THÊM

NGƯỜI ANH                      Em tôi bé bỏng, ngực chưa đầy,
Ta sẽ làm gì khi ai hỏi nó đây ?
Nếu nó là trường thành,
Ta sẽ xây thêm tháp bạc,
Nếu nó là cánh cửa,
Ta sẽ ráp lên trên cửa ván gỗ tùng.
NGƯỜI YÊU NỮ                               Nếu tôi là bức tường,
Vú tôi là đôi tháp,
Bao giờ trước mắt em,
Tôi tìm được bình an
NGƯỜi  YÊU NAM           Sa lô môn có khu vườn nho ở Bá Hạ Môn,
Người giao vườn cho những kẻ canh giữ.
Mỗi người phải trả hoa lợi  nghìn nén bạc.
Vườn nho của tôi trước mặt tôi,
Hỡi Sa lô môn, trả ông nghìn nén bạc,
Và hai trăm cho kẻ giữ vườn.
Em ở trong khu vườn
Các bạn bè đến lắng nghe tiếng em.
Hãy lên tiếng đi em,
NGƯỜI YÊU NỮ                               Này anh  yêu, hãy trốn đi
Hãy nhẹ bước chân như con hoảng con nai.
Trên núi trầm hương đó.
CHÚ THÍCH:
Đoạn thơ cuối cùng này có vẻ không liên hệ gì tới bài thơ, như một trang thơ nào chép lạc vào đây.
Lửa của Yavé còn có nghĩa là lửa của thần Sấm. Hy Lạp Zeus là Thần Sấm, cai trị cõi con người và trời là gốc tích chữ Dieu của Tây Phương.

Paris 6-12-2012
PTC
*Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục. Viện Đại Học Paris V Sorbonne. Tác giả : Hồ Xuân Hương, Nàng Là Ai ?. Thơ Tình Nhất Uyên (Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa). Cánh chim từ vùng lửa đỏ (Thơ Nhất Uyên, nhạc Tôn Thất Lập) Truyện Thơ Odyssée, Sử Thi Iliade bằng thơ lục bát. Tự Điển Tình Yêu bằng Thơ Tình Xuân Diệu. Nguyễn Du mười năm gió bụi.. và nhiều công trình nghiên cứu về Giáo Dục và văn học Việt Nam.