Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013

Sự phát triển các thế hệ TI VI

Tuổi Trẻ Online - Thứ Sáu, 24/05/2013, 14:03
Quá trình phát triển và xu hướng của TV
Được phát minh vào thập niên 1920, TV luôn phát triển song hành với nhu cầu giải trí của con người. Và đến năm 2013, chúng ta đang được chứng kiến một bước phát triển ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử với công nghệ TV tương tác thông minh độc đáo.  
Thông tin Infographic sau sẽ cho bạn cái nhìn tổng quát về sự phát triển của các thế hệ TV trong các giai đoạn từ đen trắng cho đến TV thông minh ngày nay:
PV

Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2013

THỜI GIAN CỦA BỆNH TẬT


Tr bac si 2GIỜ CỦA BỆNH TẬT


Thỉnh thoảng mình cảm thấy cơ thể suy nhược và rất yếu… Có thể đó là thời khắc
mà bệnh tật để phát sinh…. Do tạo hóa, thời tiết và những ngày trong năm… Vào một số khoảng thời gian, thể trạng con người đặc biệt yếu, dễ bị “đánh gục” bởi mầm bệnh hoặc bệnh tái phát. Chuyên gia giải thích mối liên quan giữa quy luật thời gian và biến hóa của sức khỏe.
- Một ngày : Một ngày có hai giờ “ma quỷ”.
Từ 6-9h sáng, các bệnh về tim mạch và não như thiếu máu cơ tim, co thắt ngực, loạn nhịp tim, tai biến… thường phát sinh. Tổ chức Y tế thế giới điều tra 4.769 người bệnh tử vong vì nhồi máu cơ tim, trong đó 28% phát bệnh từ 6-10h sáng. Người già và người mắc bệnh tim mạch sau khi dậy sớm nên tránh đột ngột ra khỏi nhà hoặc mở cửa sổ ngay, có thể vận động nhẹ nhàng trong phòng để lưu thông máu, để cơ thể quen với thời tiết giữa bên ngoài và trong phòng.
Thời gian nguy hiểm cho sức khỏe tiếp theo là, sau chập tối, lúc này tỷ lệ phát tác của bệnh tim lại tăng lên. Nếu uống rượu khoảng 7h tối, thì sẽ cần nhiều thời gian để gan bài tiết rượu, so với các thời điểm khác trong ngày. Dot quy 3Do đó, khoảng 7h tối uống rượu sẽ khiến gan dễ bị tổn hại, và người uống dễ bị say hơn. Sức sống của con người về đêm là rất thấp, huyết áp, thân nhiệt, hô hấp, nhịp mạch đều chậm dần, tuần hoàn máu cũng chậm theo, nồng độ hormone xuống thấp, cơ bắp giãn, phản ứng chậm chạp. Vì thế, cần hạn chế làm việc thâu đêm và thời điểm cuối ngày cần để cơ thể nghỉ ngơi, tránh căng thẳng…
- Một tuần : Các nhà khoa học Đức và Phần Lan phát hiện, vào thứ hai, số người bị đột quỵ cao nhất trong tuần và nguy cơ tử vong cũng cao hơn ngày thường 40%. Do đó, các chuyên gia sức khỏe Đức đã gọi thứ hai là ngày thứ hai đen. Điều này liên quan tới đồng hồ sinh học trong một tuần của cơ thể. Thứ hai thường được coi là ngày khởi đầu một tuần làm việc, học tập, nên khá nhiều người thấy căng thẳng khi đến ngày này, đặc biệt lại sau hai ngày cuối tuần được thư giãn. Đây cũng là ngày các căn bệnh dễ phát sinh và trầm trọng.
- Một tháng : Sau và trước ngày trăng tròn trong một tháng là thời điểm thể trạng con người dễ yếu, điều này liên quan đến khí tượng thiên văn. Sự lên xuống của thuỷ triều liên quan đến sức hút Mặt trăng, lực hút này cũng tác động đến lượng máu trong cơ thể của con người,Huyet ap 2 khiến áp lực của dòng máu trong mạch giảm xuống, dẫn đến áp lực trong và ngoài thành mạch chênh lệch, khi sự chênh lệch này lớn sẽ dễ dẫn đến các bệnh tim mạch như tai biến mạch máu não.
Một năm : Mỗi năm có hai thời điểm dễ ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Đó là tháng cực lạnh hay cực nóng. Những năm có mùa đông với nhiều đợt lạnh kéo dài, số bệnh nhân nội trú tại viện tăng cao, tỷ lệ tử vong cũng tăng. Thời tiết lạnh sâu thường khiến sức đề kháng giảm, tinh thần dễ trầm cảm, trao đổi chất chậm. Thời tiết nắng nóng kéo dài lại dễ gây các bệnh lý tiêu hóa, tim mạch (trời nóng dễ mất nước, không bù đủ nước, máu có thể bị cô đặc lại tăng gánh nặng cho tim và dòng máu khó lưu thông).
hoangnguyen post
Vĩnh Bảo sưu tầm 3/7/2013

INTERNET 10 NĂM QUA

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA INTERNET TRONG 10 NĂM QUA

http://media.tinhte.vn/photo/var/albums/2011/Internet-Decade-Later-Infographic.gif?m=1347913845

TRÀ VÀ CÀ PHÊ

INFOGRAPHIC - TRÀ VÀ CÀ PHÊ

Trà và cà phê là 2 loại thức uống được nhiều người ưa thích nhất. Có những gì đặc biệt về trà và cà phê mà bạn chưa biết? Hãy cùng tham khảo về 2 loại đồ uống này.


Các nhà khoa học đều công nhận rằng uống trà tốt cho sức khỏe bởi các lý do sau:
  • Các chất chống ôxy hóa trong trà giúp làm chậm đi sự lão hóa của tế bào.
  • Chất gallotanin trong trà ngăn chặn sự thoái hóa của tế bào thần kinh và kích thích quá trình phục hồi của chúng. Do đó, uống trà cũng tốt cho não bộ.
  • Các flavonoide trong trà hạn chế sự lắng đọng cholesterol và xơ hóa mạch máu, làm giảm nguy cơ tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim và tỷ lệ tử vong do các vấn đề tim mạch.
  • Trà cũng có tác dụng kích thích thần kinh trung ương, giúp tinh thần hưng phấn, kích thích hô hấp và làm tim đập nhanh hơn.
Ngoài ra, uống trà còn có khả năng phòng chống ung thư, ngăn chặn sự tổn thương ADN, ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh parkinson và hạn chế sự loãng xương ở người già.

Uống cà phê đủ liều lượng có thể giúp bạn giảm được nguy cơ mệt mỏi, căng thẳng, đau đầu khó chịu hay vướng vào một số bệnh như cao huyết áp, tiểu đường típ 2, gan, hen suyễn hay dị ứng…

Còn những gì đặc biệt về trà và cà phê mà bạn chưa biết? Hãy cùng tham khảo về 2 loại đồ uống này:



Theo TTVN
Vĩnh Bảo sưu tầm 5/7/2013
http://vinhsinh.blogspot.com/2013/07/tra-va-ca-phe.html


LỢI ÍCH VÀ LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA CÁC LOẠI TRÀ

Đọc thêm
Vĩnh Bảo sưu tầm 5/7/2013



Từ xa xưa, trà đã được biết đến không chỉ như một thứ nước giải khát thông dụng, bồi bổ sức khỏe mà còn có tác dụng chữa lành và ngăn ngừa một số lọai bệnh.Trước đây, nguyên liệu dùng để chế biến trà chủ yếu lấy từ cây chè. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng vùng khí hậu, phương thức chăm sóc, cách thu hái, chế biến mà người ta chia trà ra nhiều lọai khác nhau như trà ướp sen thì gọi là trà sen, ướp lài thì gọi trà lài, trà được sao chế từ những búp non là trà búp.

Hãy cùng theo dõi Infographic dưới đây để hiểu rõ hơn về lịch sử ra đời của trà và các lợi ích sức khoẻ mà trà mang lại.



Nguồn: Infographicsarchive

Thứ Hai, 1 tháng 7, 2013

HỌC LÀM NGƯỜI (Vinh Bao st)

ĐẠI SƯ TINH VÂN CÓ MỘT NGƯỜI ĐỆ TỬ, SAU KHI TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC LIỀN HỌC THẠC SĨ, RỒI LẠI HỌC TIẾN SĨ, SAU NHIỀU NĂM ĐÈN SÁCH CUỐI CÙNG CŨNG ĐÃ HOÀN THÀNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÊN VÔ CÙNG MỪNG VUI.
MỘT HÔM NGƯỜI ĐỆ TỬ NÀY TRỞ VỀ, THƯA VỚI ĐẠI SƯ.
- THƯA THẦY NAY CON ĐÃ CÓ HỌC VỊ TIẾN SĨ RỒI, SAU NÀY CON PHẢI HỌC NHỮNG GÌ NỮA ?
NGÀI TINH VÂN BẢO : HỌC LÀM NGƯỜI, HỌC LÀM NGƯỜI LÀ VIỆC HỌC SUỐT ĐỜI CHẲNG THỂ NÀO TỐT NGHIỆP ĐƯỢC.

1/. THỨ NHẤT, “HỌC NHẬN LỖI” : CON NGƯỜI THƯỜNG KHÔNG CHỊU NHẬN LỖI LẦM VỀ MÌNH, TẤT CẢ MỌI LỖI LẦM ĐỀU ĐỔ CHO NGƯỜI KHÁC, CHO RẰNG BẢN THÂN MÌNH MỚI ĐÚNG, THẬT RA KHÔNG BIẾT NHẬN LỖI CHÍNH LÀ MỘT LỖI LẦM LỚN.

2/. THỨ HAI, “HỌC NHU HÒA” : RĂNG NGƯỜI TA RẤT CỨNG, LƯỠI NGƯỜI TA RẤT MỀM, ĐI HẾT CUỘC ĐỜI RĂNG NGƯỜI TA LẠI RỤNG HẾT, NHƯNG LƯỠI THÌ VẪN CÒN NGUYÊN, CHO NÊN CẦN PHẢI HỌC MỀM MỎNG, NHU HÒA THÌ ĐỜI CON NGƯỜI TA MỚI CÓ THỂ TỒN TẠI LÂU DÀI ĐƯỢC. Tr thay chua 3TÂM NHU HÒA LÀ MỘT TIẾN BỘ LỚN TRONG VIỆC TU TẬP.

3/. THỨ BA, ”HỌC NHẪN NHỤC” : THẾ GIAN NÀY NẾU NHẪN ĐƯỢC MỘT CHÚT THÌ SÓNG YÊN BỂ LẶNG, LÙI MỘT BƯỚC BIỂN RỘNG TRỜI CAO. NHẪN, VẠN SỰ ĐƯỢC TIÊU TRỪ. NHẪN CHÍNH LÀ BIẾT XỬ SỰ, BIẾT HÓA GIẢI, DÙNG TRÍ TUỆ VÀ NĂNG LỰC LÀM CHO CHUYỆN LỚN HÓA THÀNH NHỎ, CHUYỆN NHỎ HÓA THÀNH KHÔNG.

4/. THỨ TƯ, “HỌC THẤU HIỂU” : THIẾU THẤU HIỂU NHAU SẼ NẢY SINH NHỮNG THỊ PHI, TRANH CHẤP, HIỂU LẦM. MỌI NGƯỜI NÊN THẤU HIỂU THÔNG CẢM LẪN NHAU, ĐỂ GIÚP ĐỠ LẪN NHAU. KHÔNG THÔNG CẢM LẪN NHAU LÀM SAO CÓ THỂ HÒA BÌNH ĐƯỢC ?

5/.  THỨ NĂM, “HỌC BUÔNG BỎ” : CUỘC ĐỜI NHƯ MỘT CHIẾC VALI, LÚC CẦN THÌ XÁCH LÊN, KHÔNG CẦN DÙNG NỮA THÌ ĐẶT NÓ XUỐNG, LÚC CẦN ĐẶT XUỐNG THÌ LẠI KHÔNG ĐẶT XUỐNG, GIỐNG NHƯ KÉO MỘT TÚI HÀNH LÝ NẶNG NỀ KHÔNG TỰ TẠI CHÚT NÀO CẢ. NĂM THÁNG CUỘC ĐỜI CÓ HẠN, NHẬN LỖI, TÔN TRỌNG, BAO DUNG, MỚI LÀM CHO NGƯỜI TA CHẤP NHẬN MÌNH, BIẾT BUÔNG BỎ THÌ MỚI TỰ TẠI ĐƯỢC !

Tr thay chua6/. THỨ SÁU, “HỌC CẢM ĐỘNG” : NHÌN THẤY ƯU ĐIỂM CỦA NGƯỜI KHÁC CHÚNG TA NÊN HOAN HỶ, NHÌN THẤY ĐIỀU KHÔNG MAY CỦA NGƯỜI KHÁC NÊN CẢM ĐỘNG. CẢM ĐỘNG LÀ TÂM THƯƠNG YÊU, TÂM BỒ TÁT, TÂM BỒ ĐỀ; TRONG CUỘC ĐỜI MẤY MƯƠI NĂM CỦA TÔI, CÓ RẤT NHIỀU CÂU CHUYỆN, NHIỀU LỜI NÓI LÀM TÔI CẢM ĐỘNG, CHO NÊN TÔI CŨNG RẤT NỖ LỰC TÌM CÁCH LÀM CHO NGƯỜI KHÁC CẢM ĐỘNG.

7/.  THỨ BẢY, “HỌC SINH TỒN” : ĐỂ SINH TỒN, CHÚNG TA PHẢI DUY TRÌ BẢO VỆ THÂN THỂ KHỎE MẠNH; THÂN THỂ KHỎE MẠNH KHÔNG NHỮNG CÓ LỢI CHO BẢN THÂN, MÀ CÒN LÀM CHO GIA ĐÌNH, BẠN BÈ YÊN TÂM, CHO NÊN ĐÓ CŨNG LÀ HÀNH VI HIẾU ĐỄ VỚI NGƯỜI THÂN.

MỸ NHÀN POST
VĨNH BẢO SƯU TẦM 1/7/2013

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

NÔNG THÔN "buồn"

Giật mình thu nhập của 70% dân số


Thứ sáu 28/06/2013 07:08

Kết quả điều tra từ 2006 – 2012 có trên 20% số hộ giảm chi tiêu về lương thực, thực phẩm. 50% số hộ được điều tra phải vay nợ để trang trải trong cuộc sống và sản xuất. Trong đó tiền nợ chủ yếu là vay tư nhân, còn nguồn vay từ ngân hàng chỉ chiếm hơn 13%.
Đó là thông tin được TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn – Giám đốc Trung tâm Tư vấn chính sách (IPSARD) 
chia sẻ trong buổi hội thảo “Bức tranh nông thôn, nông dân Việt Nam nhìn từ cuộc điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình (VARHS) ngày 27/6.
Thu nhập và chi tiêu của các hộ nông dân tăng trong giai đoạn 2006 – 2010 đang ngày càng giảm mạnh. Tiết kiệm của hộ gia đình nông thôn hiện nay chỉ khoảng 5 – 8 triệu đồng/hộ/năm, chiếm từ 10 – 15% thu nhập của mỗi hộ. Tiết kiệm của các hộ gia đình nông thôn (80%) được giữ dưới dạng vàng hoặc tiền mặt và sử dụng cho mục đích dự phòng khi có rủi ro xảy ra về thiên tai, dịch bệnh, ốm đau, tuổi già, rất ít được tiết kiệm cho mục đích đầu tư.

Nói về mức độ tăng thu nhập của hộ gia đình nông thôn đang giảm dần trong những năm trở lại đây, ông Đặng Kim Sơn – Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD) cho biết: “Mặc dù 3 cuộc điều tra gần đây đúng vào thời điểm kinh tế Việt Nam và Thế giới gặp khó khăn, nhưng nhìn chung mức sống của người dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn tiếp tục chuyển đổi tốt, sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng lên. Tuy nhiên, càng về sau, đặc biệt cuộc điều tra năm 2012 cho thấy tốc độ tăng về thu nhập của người nông dân càng ngày càng giảm, đặc biệt khó khăn diễn ra ở những nhóm nghèo nhất”.
Dù làm việc rất vất vả nhưng thu nhập của nông dân giảm mạnh những năm gần đây.
 Ảnh: Quỳnh Anh
Ông Sơn cũng cho biết thêm: “Thu nhập của người dân suy giảm khác nhau giữa các vùng, rõ nhất là ở những vùng sản xuất hàng hóa lớn, cả đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long nơi mà sản xuất lúa, cà phê, cá da trơn những năm vừa rồi đem lại thu nhập lớn cả cho nông dân và doanh nghiệp. Những thay đổi lớn như hiện nay đang gây khó khăn cho cả người sản xuất và kinh doanh, thêm vào đó có 2 nhóm sản xuất hết sức quan trọng như nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm và nhóm chăn nuôi, gặp phải khó khăn rất lớn suy giảm về thu nhập, sức mua trong nước giảm, thị trường thế giới. Giá đầu vào tăng đặc biệt là thức ăn chăn nuôi, thêm vào đó bệnh dịch cả cho gia súc và thủy sản”.
Xoay quanh mức thu nhập của hộ nông thôn giảm, ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn cho biết, thu nhập từ nông nghiệp giảm dần, thu nhập từ tiền công tăng nhẹ, thu nhập từ các hoạt động phí chính thức tăng lên. Tỉ lệ nghèo không giảm trong giai đoạn 2010 – 2012 đi cùng với việc tăng số hộ tái nghèo.
Những rào cản khiến nông dân gặp nhiều khó khăn trong sản xuất được chỉ ra là đất đai phân tán, manh mún; các yếu tố đầu vào trong sản xuất tăng cao trong khi thông tin thị trường và chính sách hỗ trợ yếu. Vấn đề tiêu thụ, chế biến và bảo quản nông sản là những vướng mắc lớn chưa thể giải quyết.
Cũng tại hội thảo Thạc sĩ Trần Thị Thanh Nhàn, cán bộ IPSARD chia sẻ: Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất của các thảm họa thiên nhiên, thiệt hại hàng năm do thiên tai là 1,5%  GDP và ảnh hưởng trực tiếp tới 9000 người. Trong đó mùa màng và chăn nuôi bị ảnh hưởng nặng nề do thiên tai và dịch bệnh.

Từ số liệu nghiên cứu của (IPSARD) đưa ra, hiện có tới 50% số hộ gia đình nông thôn chịu cú sốc về thu nhập, bà Nhàn cho biết: Sốc ở đây có 2 loại, thứ nhất là sốc tập thể tức là khi xảy ra cả làng cả huyện cả tỉnh cùng phải chịu, thứ hai là sốc cá nhân chỉ từng gia đình bị, xảy ra khi có người ốm đau, kinh doanh thua lỗ. Những bằng chứng thu thập được chỉ ra nguy cơ tổn thương trước các cú sốc  mang tính cá nhân đặc biệt do vấn đề sức khỏe.
Kết quả điều tra từ 2006 – 2012 có trên 20% số hộ giảm chi tiêu về lương thực, thực phẩm. 50% số hộ được điều tra phải vay nợ để trang trải trong cuộc sống và sản xuất. Trong đó tiền nợ chủ yếu là vay tư nhân, còn nguồn vay từ ngân hàng chỉ chiếm hơn 13%.
Ông Đặng Kim Sơn bày tỏ lo ngại, trong 3 năm 2010 – 2012, niềm tin của người dân có phần thay đổi. Giới trẻ vẫn tiếp tục giữ vững lòng tin vào tương lai nhưng lớp già, trung niên, chủ hộ, có một sự thay đổi đáng kể trong niềm tin, họ lo ngại về tương lai cụ thể nếu năm 2008 tổng mức độ niềm tin của người dân thuộc dân tộc Kinh và các dân tộc khác chiếm xấp xỉ gần 90% thì năm 2012 giảm xuống còn 81%.
Qua đây ông Sơn khuyến nghị: "Phải thừa nhận nông nghiệp vẫn là mặt trận hàng đầu giúp cho đất nước đi qua khó khăn trong tình hình hiện nay và nông dân là lực lượng chủ lực trong quá trình đó. Đã đến lúc chúng ta phải nhanh chống hỗ trợ cho nông nghiệp, giúp cho nông thôn phát triển để nông dân có thể phục hồi sức lực để đứng vững, vượt qua khó khăn".

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

BS Dương Quang Trung từ trần

Viện sĩ, tiến sĩ Dương Quang Trung: Người thầy thuốc mẫu mực


Thứ Năm, 27/11/2008 17:03

Anh hùng lao động, thầy thuốc nhân dân VS.TS. Dương Quang Trung, người Đảng viên cộng sản có 56 tuổi đảng, 50 năm hoạt động chuyên môn, đã dành cả tâm hồn, trí tuệ, sức lực cống hiến cho sự nghiệp y tế Việt Nam.
Sinh trưởng tại xã An Xuyên một vùng quê nghèo thuộc tỉnh Cà Mau, Dương Quang Trung được cha, một nhà nho yêu nước luôn rèn dạy con tình yêu thương đồng bào, biết sống vì Tổ quốc, vì mọi người. Sau khi học xong trung học tại Sài Gòn, theo gương mẹ, một nữ hộ sinh tận tụy, anh quyết chí theo ngành y để trị bệnh cứu người. Bằng sự nỗ lực của bản thân, với sự giúp đỡ của gia đình, anh sang du học ở Pháp năm 1948 và tốt nghiệp tiến sĩ y khoa năm 1958 tại Đại học y khoa Bordeaux, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng cộng sản Pháp từ năm 1952, tham gia các hoạt động ủng hộ kháng chiến, chống chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.
Năm 1960, sau gần 13 năm sống ở Pháp, ông bà cùng 3 con quyết định trở về quê hương, về Hà Nội, đồng cam cộng khổ với các đồng nghiệp trong thời kỳ kinh tế nhiều khó khăn, mà không chọn về Sài Gòn để có cuộc sống đầy đủ và an nhàn hơn. Với kiến thức của một tiến sĩ y khoa được đào tạo ở nước ngoài, với 2 năm đào tạo chuyên khoa ngoại lồng ngực, TS. Dương Quang Trung được điều động về công tác tại Viện chống lao Trung ương và được đề bạt làm Phó chủ nhiệm Khoa phẫu thuật phổi của Viện. Ông cũng đã giúp GS. Tôn Thất Tùng trong việc xây dựng Khoa phẫu thuật phổi ở Bệnh viện hữu nghị Việt Đức.
Năm 1965, 10 năm sau ký kết Hiệp định Genève, nước nhà vẫn còn bị chia cắt, đế quốc Mỹ tiếp tục đổ quân vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Bộ trưởng Bộ Y tế khi ấy là BS. Phạm Ngọc Thạch triển khai kế hoạch đưa nhiều cán bộ có trình độ về miền Nam, đáp ứng yêu cầu của chiến trường. TS. Dương Quang Trung đã tình nguyện trở về miền Nam góp công sức cùng đồng bào chống Mỹ cứu nước. Vợ ông, BS. Võ Thị Lan trong suốt 15 năm trời ở lại miền Bắc, đảm đang nuôi dạy 4 con nhỏ trong hoàn cảnh chiến tranh phá hoại của Mỹ, phải đưa con đi sơ tán, với hoàn cảnh kinh tế vô cùng khó khăn của đất nước.
Tháng 3/1965, ông lên đường vào chiến trường miền Nam, đang đi vào thời kỳ ác liệt. Sau 3 tháng hành quân vất vả vượt Trường Sơn, trèo đèo lội suối, ông tới vùng giải phóng, tham gia xây dựng và làm việc tại Bệnh viện Hoàng Lệ Kha, bệnh viện phục vụ cán bộ của Ban dân y Trung ương cục.
Theo yêu cầu của chiến trường, với chiến lược 2 chân (quân sự - chính trị), 3 mũi (quân sự - chính trị - binh vận), BS. Dương Quang Trung, ngoài nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe cho cán bộ lãnh đạo, được điều động hoạt động bí mật trong nội thành khu Sài Gòn - Gia Định, công tác ở Ban trí vận - mặt trận. Trong đợt tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, ông đã cùng đồng đội tổ chức đưa các nhân sĩ trí thức, như luật sư Trịnh Đình Thảo, GS. Nguyễn Văn Kiết, BS. Dương Quỳnh Hoa, kỹ sư Nguyễn Văn Bổn và nhiều vị khác ra chiến khu tham gia thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Sau ngày miền Nam được giải phóng. TS. Dương Quang Trung đảm nhiệm chức vụ Giám đốc Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh, trực thuộc Ủy ban quân quản khu Sài Gòn - Gia Định và sau khi là Phó Giám đốc, ông đảm nhiệm chức vụ Giám đốc sở y tế, trực thuộc Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh, từ 1981 - 1997.
Những năm đầu sau giải phóng, ngành y tế TP. Hồ Chí Minh với bộn bề công việc, TS. Dương Quang Trung tham gia chỉ đạo sát sao và quyết liệt trong công tác phòng chống nhiều dịch bệnh, khống chế các bệnh xã hội do chế độ cũ để lại. Với tấm lòng chân thành của mình, ông tới thăm, chuyện trò với nhiều trí thức là nhân viên cao cấp của chính quyền cũ, vận động nhiều bác sĩ và cán bộ y tế trước kia đứng bên kia chiến tuyến, ở lại xây dựng đất nước. Để giảm bớt khó khăn về đời sống của nhân viên y tế, Giám đốc Dương Quang Trung đã đề xuất phương án cho phép bác sĩ mở phòng khám bệnh ngoài giờ, ở bệnh viện hay ở nhà riêng, cho phép các dược sĩ mở nhà thuốc tư nhân, đại lý bán thuốc. Chủ trương này đã góp phần giúp đa số cán bộ ngành ổn định cuộc sống, yên tâm ở lại công tác tại các cơ quan.
Ngày 4/10/1988, tại TP. Hồ Chí Minh, có một sự kiện lớn: TS. Dương Quang Trung, Giám đốc Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh, đã tổ chức và chỉ huy ca mổ lịch sử, quy tụ gần 70 chuyên gia tên tuổi đầu ngành, thực hiện ca mổ tách đôi cặp song sinh Việt - Đức. Ca mổ tiến hành trong hơn 15 giờ, đã thành công và là ca mổ tách đôi cặp song sinh phức tạp và lớn tuổi nhất trên thế giới lúc bấy giờ, được đưa vào sách kỷ lục Guinness, đánh dấu sự hợp đồng tác nghiệp có hiệu quả và sự trưởng thành của ngành y tế thành phố.
Đức dần lớn lên, khỏe mạnh, với đôi nạng đã đi lại bình thường và đi được xe máy ra phố, ra chợ... Năm 2006, Đức mong muốn được lập gia đình như người bình thường, và do Đức vẫn coi Viện sĩ Dương Quang Trung là ông ngoại, nên mời ông làm chủ hôn cho đám cưới của vợ chồng Đức, ngày 4/10/2006.
Vợ chồng Đức và VS.TS. Dương Quang Trung trong ngày gặp mặt 20 năm.
Vào những năm cuối thập kỷ 80, Giám đốc sở y tế, VS.TS. Dương Quang Trung đã có sự hợp tác tốt đẹp giữa y tế thành phố với GS. Alain Carpentier, Chủ tịch Hiệp hội Alain Carpentier (Pháp) bắt tay xây dựng một Viện Tim, với nhiều trang thiết bị hiện đại. Viện Tim được khởi công xây dựng vào cuối tháng 4/1990 và hoạt động từ ngày 1/1/992 theo quy chế tự quản, tự cân đối thu chi, không nhằm mục đích lợi nhuận, tiếp nhận những bệnh nhân có khả năng đóng góp và giúp đỡ những bệnh nhân nghèo. Đến nay, Viện Tim đã mổ được trên 17.974 ca, với tỷ lệ thành công gần 98%. Trong hơn 17 năm, đã có 4.682 bệnh nhân nghèo được giúp đỡ một phần hoặc hoàn toàn chi phí mổ tim với tổng số tiền trên 101 tỷ đồng. Đặc biệt là có tới trên 1.900 bệnh nhân được giúp đỡ 100% chi phí mổ. Viện Tim đã chuyển giao kỹ thuật cho nhiều bệnh viện ở Trung ương và một số tỉnh. Ngày 11/12/2006, Viện Tim đã được đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới.
Vận dụng đúng đắn chủ trương của Bác Hồ về xây dựng một nền y tế của ta, kết hợp với xu hướng của y học hiện đại thế giới, VS.TS. Dương Quang Trung đã tham gia lãnh đạo các hoạt động của y tế TP. Hồ Chí Minh, theo hướng đẩy mạnh công tác dự phòng, củng cố y tế cơ sở, tổ chức tốt các chiến dịch tiêm chủng mở rộng, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống dịch bệnh, đồng thời xây dựng và phát triển các chuyên khoa sâu với kỹ thuật cao. Ông đã góp phần xây dựng Trung tâm chẩn đoán y khoa, một mô hình xã hội hóa sử dụng kỹ thuật cao, với giá cả phải chăng.
Năm 1989, trên cương vị cán bộ đầu ngành Y tế thành phố, VS.TS. Dương Quang Trung là người xin chủ trương và chỉ đạo xây dựng Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế của thành phố, thực hiện nghị quyết của Thành ủy, TP. Hồ Chí Minh, với sự đồng thuận của Trung ương và ông trở thành Hiệu trưởng đầu tiên của Trung tâm, một mô hình cải cách giáo dục, nhằm đào tạo các bác sĩ tổng quát hướng về cộng đồng. Người bác sĩ được đào tạo theo kiểu mới, có kiến thức vững vàng về y học cơ sở, vừa học tập lâm sàng tại các bệnh viện, vừa thực tập thực địa ở cộng đồng, tiếp cận được với mạng lưới y tế cơ sở. Mô hình “Trường - Viện - Cộng đồng” là một chủ trương sáng tạo, đã có nhiều đóng góp hiệu quả trong việc kiện toàn mạng lưới y tế của thành phố. Tới ngày 28/12/2007, Trung tâm đã làm lễ tốt nghiệp Đại học y chính quy khóa XIII và Đại học y tập trung 4 năm khóa V, và đã cho ra trường hàng nghìn bác sĩ và điều dưỡng, đang phục vụ ở tất cả các cơ sở y tế của Trung ương và thành phố... Trung tâm giờ đây đã trưởng thành, là cơ sở đào tạo thầy thuốc có tín nhiệm. Ngày 7/1/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập Trường đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch, trên cơ sở tổ chức tại Trung tâm Đào tạo bồi dưỡng cán bộ y tế TP. Hồ Chí Minh.
VS.TS. Dương Quang Trung vẫn tiếp tục hoạt động không mệt mỏi trong những năm tuổi đã ngoài thất thập. Có lúc ông đảm nhiệm 13 chức vụ, trong đó có tới 5 chức vụ chủ tịch. Với cương vị Chủ tịch Hội đồng khoa học công nghệ Sở Y tế và Giám đốc TTĐT & BDCBYT/TP.HCM, ông đã tham gia xây dựng nhiều chương trình nghiên cứu khoa học, với các đề tài ứng dụng thiết thực trong y học cơ sở, y học lâm sàng và trong việc hiện đại hóa ngành dược.
Năm nay, VS.TS. Dương Quang Trung đã ở tuổi 80, nhưng vẫn mạnh khỏe, dẻo dai. Ông vẫn tiếp tục tham gia giảng dạy ở Đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch và là Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển sức khỏe cộng đồng. Ông còn tham gia lãnh đạo nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp như Chủ tịch Hội Y học TP. Hồ Chí Minh - Phó Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam, Chủ tịch Hội quân dân y Sài Gòn - Gia Định, Chủ tịch Hội hành nghề y tư nhân và các tổ chức từ thiện như: Chủ tịch danh dự Hội bảo trợ trẻ em, Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ chất độc da cam, tham gia Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo...
Ông bà có một cuộc sống an nhàn và hạnh phúc. Vợ ông là điểm tựa giúp cho ông gặt hái được những thành công ở ngoài đời. Bà là BS. Võ Thị Lan, nguyên Phó giám đốc Trung tâm răng-hàm-mặt TP. Hồ Chí Minh. Ngoài việc hoàn thành công tác chuyên môn ở cơ quan, khi trở về nhà bà còn là một người vợ, người mẹ giỏi giang, đảm đang các công việc gia đình để ông dốc tâm sức cho công tác ngoài xã hội. Ông luôn chia sẻ với người vợ thân yêu mỗi khi ông có niềm vui hay thành công, những lúc đón nhận huân chương và danh hiệu vinh quang, và ông muốn dành nhiều thời gian để bù đắp cho bà, vì bà đã hy sinh quá nhiều cho ông. Ông bà luôn tâm niệm không chú trọng làm giàu hay danh lợi. Ông bà chủ trương không để lại cho con gia tài, mà rèn luyện cho con có một nghề nghiệp tốt, và cha mẹ là tấm gương để các con phấn đấu noi theo... Gia đình, theo cách nói của ông, là “thuốc an thần”.
Đảng, Nhà nước nhân dân đã đánh giá cao công lao của ông, đã trao tặng các danh hiệu cao quý: huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, danh hiệu Thầy thuốc nhân dân (1995), danh hiệu Anh hùng lao động (2003), danh hiệu chiến sĩ thi đua nhiều năm và nhiều huân, huy chương cao quý khác, VS.TS. Dương Quang Trung được nhân dân tín nhiệm, đồng nghiệp quý trọng và nhiều thế hệ học trò quý mến.
Trần Giữu

Vĩnh biệt viện sĩ - bác sĩ Dương Quang Trung

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130623/vinh-biet-vien-si-bac-si-duong-quang-trung.aspx


(TNO) Người thầy thuốc cao cả, đóng góp rất nhiều cho ngành y tế nước nhà vừa vĩnh viễn ra đi.

Khoảng 19 giờ hôm nay 23.6, thi thể của viện sĩ - bác sĩ Dương Quang Trung được đưa về đến sân bay Tân Sơn Nhất, TP.HCM.
Bác sĩ Dương Quang Trung vừa mất vào đêm 22.6 tại một bệnh viện ở Singapore.
Trước đó, vào đầu tuần này, bác sĩ Dương Quang Trung đột ngột lâm bệnh (bệnh bóc tách động mạch chủ ngực), được đưa vào cấp cứu ở Viện tim TP.HCM.
Bác sĩ Dương Quang Trung (phải) và giáo sư Alain Carpentier, Pháp (người đồng sáng lập Viện Tim TP.HCM)
Bác sĩ Dương Quang Trung (phải) và giáo sư Alain Carpentier, Pháp (người đồng sáng lập Viện tim TP.HCM)
Sau khi qua cơn nguy kịch, các bác sĩ hội ý với nhau đưa bác sĩ Dương Quang Trung sang Singapore để điều trị.
Đích thân bác sĩ Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Chẩn đoán y khoa Medic đưa bác sĩ Dương Quang Trung sang Singapore.
Qua Singapore điều trị được hai hôm, tình trạng có đỡ. Dự kiến đầu tuần tới sẽ về lại Việt Nam, nhưng chiều 22.6, bệnh tình của bác sĩ Dương Quang Trung đột ngột trở nặng. Ông qua đời lúc 19 giờ cùng ngày.
Bác sĩ Dương Quang Trung sinh năm 1928 tại Cà Mau, cha ông là một nhà nho yêu nước, mẹ là nữ hộ sinh.
Bác sĩ Dương Quang Trung trong ngày nhận Huân chương Quốc công (năm 2006) do nước Pháp trao tặng

Bác sĩ Dương Quang Trung trong ngày nhận Huân chương Quốc công (năm 2006) do nước Pháp trao tặng 2
Bác sĩ Dương Quang Trung trong ngày nhận Huân chương Quốc công (năm 2006) do nước Pháp trao tặng
Ông là người đầu tiên giữ cương vị Giám đốc Sở Y tế TP.HCM (vào tháng 7.1975); là người sáng lập ra Viện tim TP.HCM, và Trung tâm Đào tạo & Bồi dưỡng cán bộ y tế (nay là Trường đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM).
Ông cũng là người lập nên các trung tâm y tế chuyên sâu của thành phố, mà ngày nay là các BV chuyên khoa mũi nhọn hàng đầu của khu vực phía Nam, gồm: BV Ung Bướu, BV Chấn thương chỉnh hình, BV Tai - Mũi - Họng, BV Phạm Ngọc Thạch, BV Mắt TP.HCM, BV Truyền máu huyết học...
Ông cũng là người chủ trương phát triển y tế cơ sở, và y tế tư nhân, được anh em trong ngành gọi thân mật là  “anh Tư Trung”.
Bác sĩ Dương Quang Trung lấy bằng tiến sĩ y khoa tại Pháp năm 1958, và sau đó trở thành bác sĩ phẫu thuật lồng ngực của Viện Hàn lâm quốc gia về phẫu thuật của Pháp.
Ông từng được nước Pháp phong viện sĩ, tiến sĩ, và trao Huân chương Quốc công (do Tổng thống Cộng hòa Pháp Jacques Chirac ký tặng)...
Tin, ảnh: Thanh Tùng

Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

Khốn khổ Nông Dân Việt

Sau 24 năm 'cường quốc', Việt Nam có gì?


TUANVIETNAM - 14/06/2013 - 

 Vì sao tiếng kêu của người làm nông nghiệp không "rầm rộ" như lĩnh vực khác trong thời điểm đầy khó khăn, nguy nan? Phải chăng là do "Bộ trưởng hiền quá!", như nhận xét của đại biểu Trần Hoàng Ngân?
Đã khá lâu, người nông dân và những ai quan tâm đến nông nghiệp - nông thôn mới nghe được những lời chất vấn sắc nét, rõ vấn đề như đại biểu Trần Hoàng Ngân với Bộ trưởng Bộ NN - PTNT Cao Đức Phát! Dù rằng, hàng loạt vấn nạn của ngành NN - PTNT lâu nay cứ "đến hẹn lại lên", thậm chí ngày một trầm kha.
Trầm kha và xót xa nhất là lúa nông dân làm ra bán không được, ế thừa khắp nơi. Trả lời chất vấn của phóng viên làm sao đảm bảo cho nông dân lãi 30% như yêu cầu của Chính phủ, ông chủ tịch Hiệp hội lương thực VN, kiêm TGĐ Tổng Công ty lương thực miền Nam đã cáu kỉnh: "Lúc này chỉ nói bán được hay không thôi! Không bán thì đem cho vịt ăn!".
Sau 24 năm, tức gần 1/4 thế kỷ, nông dân VN được xưng tụng như những anh hùng đã đưa đất nước từ chỗ nhập khẩu lúa gạo lớn, thành quốc gia xuất khẩu lúa gạo thứ hai thế giới.
Ngược dòng lịch sử, cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, VN và Myanmar từng là hai quốc gia xuất khẩu gạo lớn ở châu Á. Do hoàn cảnh chiến tranh, xung đột, hai nước vắng bóng suốt thời gian dài.
Đến năm 1989, nhờ công cuộc Đổi mới, cụ thể là Khoán 10 và Chỉ thị 100, VN đã "xuất thần" trở lại ngôi vị cường quốc xuất khẩu lúa gạo trước sự ngỡ ngàng của thế giới và cả chính chúng ta.
Thành tựu này vĩ đại đến mức, suốt hàng chục năm sau đó, trong báo cáo thành tích của các ngành đều có câu "góp phần đưa đất nước thành cường quốc xuất khẩu gạo"! Ngành NN- PTNT, Hội Nông dân VN viết vào báo cáo như vậy còn có lý. Nhưng nhiều ngành chẳng dính dáng đến nông nghiệp cũng "chia sẻ" thành tích này với niềm tự hào to lớn.
Nhắc lại để thấy rằng, thành tích kỳ diệu sau khi trở lại ngôi "cường quốc" lúc ấy có tác động to lớn không chỉ về kinh tế, mà lan rộng ra tất cả các lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, ánh hào quang lấp lánh của ngôi vị đã lụi tàn vào giai đoạn sau. Đến hôm nay, nếu không chấp nhận bán đổ bán tháo, nông dân phải "để cho vịt ăn", thì quả là đáng buồn!
nông nghiệp, chất vấn quốc hội, được mùa mất giá, xuất khẩu lúa gạo, bộ trưởng Cao Đức Phát
Bộ trưởng Cao Đức Phát. Ảnh: Minh Thăng
Không chỉ cây lúa "chịu đời đắng cay"
Năm 2012, ngành NN - PTNT được xem là "điểm sáng" vì đã làm trụ đỡ cho nền kinh tế gặp khủng hoảng. Kim ngạch xuất khẩu vẫn cao hơn năm trước.
Nhưng cái giá phải trả cực đắt: Nông dân càng làm ra nhiều sản phẩm càng lỗ! Càng xuất khẩu càng khó khăn. Những đồng ngoại tệ mang về cho đất nước lúc khủng hoảng quý giá vô ngần chính là mồ hôi, nước mắt của nông dân.
Không chỉ người trồng lúa, mà cả người chăn nuôi, trồng cây trái, hoa quả, rau màu, v.v... Mặt trận nông nghiệp gần như đều chung số phận thua lỗ! Báo chí phản ánh nhiều đến nỗi nhàm chán. Một số chính sách, chương trình đã được đưa ra nhưng gần như chưa có tác dụng.
Đại biểu Trần Hoàng Ngân trong phiên chất vấn tại Quốc hội ngày 12/6 đã "nói hộ" nỗi lòng của người nông dân. Theo ông, trong khi các ngành gặp khủng hoảng như bất động sản người ta lăn xả, đánh động, sùng sục tìm giải pháp, kiến nghị Chính phủ, đưa ra Quốc hội... thì tiếng kêu của người làm nông nghiệp tắt lịm trước khi đến cấp cao!
Tại các kỳ họp trước, ở cơ sở người làm nông nghiệp lo toan mất ăn mất ngủ, thua lỗ, phá sản, tuyệt vọng..., còn chương trình nghị sự của Quốc hội vẫn thường xuyên đề cập đến những biện pháp, gói cứu nguy cho bất động sản!
Vì sao tiếng "kêu cứu" của người làm nông nghiệp không "rầm rộ" như lĩnh vực khác trong thời điểm đầy khó khăn, nguy nan? Phải chăng là do "Bộ trưởng hiền quá!", như nhận xét của đại biểu Ngân?
Nông nghiệp đang đi về đâu?
Ở Hà Lan, 1 ha đất nông nghiệp đem lại 40.000 USD/năm. Gần với nước ta là Đài Loan, mỗi ha hàng năm đạt 12.000 USD.
So sánh hiệu quả với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác về hiệu quả thì không khỏi khập khiễng. Song điều cần nói là một nền nông nghiệp cứ "giậm chận tại chỗ" và thụt lùi mãi về hiệu quả sản xuất thì không thể gọi là bình thường, nếu không nói là bất thường!
nông nghiệp, chất vấn quốc hội, được mùa mất giá, xuất khẩu lúa gạo, bộ trưởng Cao Đức Phát
Không chỉ cây lúa "chịu đời đắng cay"
Sau 1/4 thế kỷ trở lại ngôi vị, khả năng cạnh tranh của hạt gạo VN không những vẫn thua xa Thái Lan, mà còn thua luôn cả những "cường quốc" mới nổi như Ấn Độ, Myanmar. Và thua luôn cả gạo của Campuchia, quốc gia mới làm ra lúa gạo đủ ăn mấy năm nay!
Cũng sau 1/4 thế kỷ sản xuất gạo bán ra thế giới, ngoài thành tích sản lượng ngày càng tăng, VN vẫn chưa thật sự có được thị trường của mình. Chỉ cần một quốc gia nhỏ như Campuchia tham gia xuất khẩu cũng khiến cho sản phẩm của chúng ta điêu đứng, xiêu vẹo.
Những tiến bộ mới trong canh tác như cơ giới hóa, kỹ thuật, chăm sóc, v.v... đã giúp tăng năng suất. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất, bao trùm nhất là tổ chức sản xuất nền nông nghiệp hiện đại, kết nối với nhu cầu, thị trường của thế giới gần như chưa có kết quả đáng kể.
Những tiếng nói về cải cách, tổ chức lại nền Sản xuất nông nghiệp cũng "đến hẹn lại lên", như điệp khúc "được mùa mất giá", chỉ có tác dụng "thuốc an thần" tạm thời. Sau đó, đâu lại vào đấy!
Rõ ràng, vị tư lệnh của ngành Nông nghiệp không thể "hiền quá" như nhận xét của đại biểu Trần Hoàng Ngân! Bởi ông là người đứng mũi chịu sào cho số phận của gần 70% dân số là nông dân; của một ngành sản xuất nền tảng của nền kinh tế đất nước!
  • Duy Chiến

Thứ Năm, 13 tháng 6, 2013

GỐM THỜI LÝ - TRẦN


http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=6433
Tia sáng 10:54-11/06/2013 

Gốm Lý-Trần của Đại Việt

Phan Cẩm Thượng

Đĩa gốm men ngọc thời Trần. Tư liệu: NAT
Gốm Lý - Trần đã trở thành khái niệm mỹ học, giống như thơ Đường, tranh Tống, nghĩa là nhắc đến nó là nhắc đến cái đẹp, mặc nhiên về giá trị của nó. Cho đến nay, vẫn chưa có phong cách gốm nào ở Việt Nam vượt qua được gốm Lý - Trần.

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

Thủa trẻ không từng hiểu sắc không
Ngày xuân tâm sự rối hoa lòng
Chúa xuân nay đã từng quen mặt
Chiếu cọ giường sư ngắm bóng hồng.

(Trần Nhân Tông)
Mặc dù đứng về mặt nghệ thuật người ta hay nhắc chung một từ là nghệ thuật Lý - Trần, nhưng đây là hai thời đại rất khác nhau, có xu hướng phát triển riêng biệt và mỗi thời đại kéo dài đến hai trăm năm, khoảng thời gian không nhỏ để có được những thay đổi căn bản. Nhà Lý (1009 – 1225) và nhà Trần (1226 – 1400) có lẽ với đặc điểm chung lớn nhất là đều lấy Phật giáo làm quốc đạo, và ít nhiều chung nhau phương thức sản xuất nông nghiệp khai thác lao động nông nô và nông dân. Số dân ít dao động từ một triệu thời Lý đến ba triệu vào cuối thời Trần cho phép xây dựng một quốc gia quy mô nhỏ và thống nhất, đặc biệt là tạo ra một phong cách nghệ thuật toàn thể (phong cách phổ quát), nghĩa là cả nước chỉ có một phong cách nghệ thuật. Phong cách này thống nhất từ kiến trúc, điêu khắc, trang trí đến đồ gốm.

Nếu như kiến trúc và điêu khắc thời Lý - Trần còn chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Champa và không ít công trình có người Champa tham gia xây dựng, thì gốm Lý - Trần không có đặc điểm gì chung với gốm Champa, và có thể nói gốm Champa không có gì để so sánh với gốm Lý - Trần. Người Champa quan tâm không nhiều đến nghệ thuật gốm, gốm với họ cốt chỉ để đựng tạm thời.
Giữa gốm thời Lý và gốm sứ Đường Tống Trung Hoa có nhiều đặc điểm chung về thẩm mỹ và kỹ thuật, nhất là phong cách nghệ thuật Lý rất gần gũi với phong cách nghệ thuật Đường, trong khi đó gốm thời Trần là cái gì đó rất riêng biệt, đặc biệt là gốm hoa nâu. Ở Trung Hoa người ta không tìm thấy được cái gì tương tự. Thực ra thì gốm Lý - Trần cũng không rơi từ trên trời xuống và không phải phát triển từ mảnh đất tưởng chừng như trống không của thời Bắc thuộc. Các kỹ thuật gốm đất nung và gốm mộ Hán trước thời Lý cũng được thời Lý tiếp thu rất sáng tạo.

Theo các tài liệu truyền thuyết và lịch sử, cho đến thời Lý - Trần, gốm đã có ba trung tâm, mà còn tồn tại cho đến ngày nay, đó là làng gốm Bát Tràng, Phù Lãng và Thổ Hà, riêng làng Thổ Hà thì ngưng làm gốm đầu thế kỷ 20. Ba làng này do ba vị đại quan thời Lý - Trần là Đào Tiến Trí, Hứa Vĩnh Kiều và Lưu Phong Tú do đi sứ ở Trung Hoa học được nghề gốm mà truyền lại do dân làng. Bát Tràng thì sản xuất gốm sắc trắng, Thổ Hà gốm sắc đỏ, Phù Lãng gốm sắc vàng. Gốm sắc đỏ chính là đồ sành men nâu và đồ sành đất nung thô, gốm sắc vàng chính là gốm sành men da lươn. Riêng gốm sắc trắng chính là gốm men trắng và men trắng vẽ hoa lam của Bát Tràng. Loại gốm vẽ hoa lam xuất hiện nhiều vào thời Trần và được nâng thành đỉnh cao ở thời Lê sơ thế kỷ 15.

Địa bàn có thể khảo cổ được của gốm Lý - Trần rất rộng, nhưng tập trung chủ yếu vào các tỉnh đồng bằng: Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa và Hà Nội. Đặc biệt trong các mộ chí vùng Mường xưa kia từ Lương Sơn hắt lên thị xã Hòa Bình cũng có nhiều gốm Lý - Trần chôn theo người chết. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thì làng Bát Tràng hằng năm sản xuất gốm, đem bán mối lợi rất to, điều đó chứng tỏ, gốm Lý - Trần là mặt hàng thương mại quan trọng của hai thời đại đó. Trên một cái đĩa men ngọc thời Lý ở bảo tàng Lịch sử Việt Nam có vòng chữ thành hình tròn: Tố xuất phù dung dạng thanh khí/ Mại mãi khách nhân giai phú quý (Sản xuất đĩa gốm men ngọc vẽ hoa phù dung/ Khách mua bán đều là người phú quý). Chiếc đĩa này cho biết một thông điệp về tình hình thương mại đồ gốm có vẻ phát đạt vào thời Lý và con người thời đó không chỉ dùng đồ gốm để ăn uống thông thường mà nhu cầu thưởng ngoạn vẻ đẹp của món đồ cũng hết sức quan trọng. Không có đồ gốm Lý - Trần nào mà không đẹp, dường như cái đẹp là nhu cầu rất phổ biến của thời này, một chiếc chậu mà chúng ta nâng niu yêu thích thì vào thời đó chắc chỉ để rửa chân mà thôi, những chiếc thạp hoa nâu lớn bây giờ là một tài sản đáng giá thì vào thời Trần nó chỉ có chức năng như chiếc tiểu cải táng thông thường của người Việt.

Gốm Lý - Trần dù rất sang trọng nhưng dường như không có sự phân biệt giữa Quan diêu và Dân diêu, cách thức phân biệt của người Trung Hoa về loại gốm sứ dành cho vua quan và cho dân thường, được chế tác và nung từ hai cơ sở khác nhau, chất lượng khác nhau hoàn toàn. Cũng theo Nguyễn Trãi, thì các lò gốm trong nước hằng năm chọn những món đồ tốt nhất dâng lên triều đình, như vậy về căn bản không có sự phân biệt hoàn toàn giữa gốm dân gian và gốm nội phủ (dành cho vua chúa quý tộc). Gốm Đại Việt chủ yếu phân biệt ở chất lượng của từng sản phẩm, đặc biệt là cách nung hàng loạt dùng viên sỏi kê lòng, nên từng cái bát, cái đĩa đều có dấu ấn của ba đến năm vệt sỏi giữa lòng, còn đĩa bát chất lượng hơn thì lòng trơn, nghĩa là không kê một chồng mà nung từng chiếc một. Khi khảo cổ học đào bởi di tích Hoàng thành Thăng Long, đã tìm được những chồng bát nung dính vào nhau, người ta cho rằng ngay trong thành cổ có những lò gốm và như vậy thì bát dùng thông thường của quý tộc cũng không nhất thiết là phải nung từng cái một.

Gốm trắng nổi lên là loại gốm phổ thông, nhưng rất tinh nhã của thời Lý. Chúng được làm với nghệ thuật bàn xoay rất cao, dáng vuốt to nhỏ chênh lệch ngay trong đồ gốm rất lớn, thành gốm rất mỏng chứng tỏ một trình độ tạo hình thành thạo. Hình dáng thường là các loại bát nở miệng, thắt lại rất nhỏ ở chân đáy; những chiếc âu đủ các loại các cỡ, cái thì giống như bát khất thực của nhà sư, cái thì rộng lòng như quả dưa lớn; những chiếc đĩa đựng cong thành; những chiếc ấm hình quả dưa có vòi và quai, nắp rất cân đối. Men bên ngoài thành gốm, có lẽ đương thời rất trắng, nay tìm được từ lòng đất lâu năm ngả thành mầu vàng nhạt hoặc vàng ngà, rất trong, bóng, và mỏng. Phần lớn các gốm trắng không có chút hoa văn nào, tự dáng hình và chất lượng men tạo ra vẻ đẹp của nó.

Gốm đen có một vẻ đẹp giản dị mà mạnh mẽ khác, thường đi với các loại đồ gia dụng loại nhỏ, những bát loe miệng có bôi mầu đen như nước mật, đặc biệt là những bát mầu đen có trang trí hoa văn chân chim. Những hoa văn này được in khéo tới mức, người ta có cảm tưởng người thợ dùng một cái chân chim ấn vào lòng bát, hay giống như một con chim đi qua lòng bát khi nó còn đang ở dạng đất ướt. Thực ra mầu đen của gốm đen là biến thể của gốm hoa nâu, các ôxít sắt dùng làm mầu vẽ có biến dạng mầu khá phong phú, tùy theo độ nung như thế nào.

Đỉnh cao của gốm Lý được xác định là gốm men ngọc, khái niệm chữ Hán gọi là Thanh khí (đồ men xanh), người phương Tây gọi là gốm Celadon. Đặc điểm của gốm men ngọc có mầu xanh ngọc bích và nhiều biến sắc của mầu xanh đó. Men ngọc tạo ra nhiều cảm giác thẩm mỹ trái ngược, men rất trong nhưng nhìn thì rất đục, thành gốm dày nặng nhưng cảm giác rất mỏng nhẹ, hoa văn chìm (ám họa) nhưng nhìn rất nổi và tiếng gõ nghe trong trẻo như tiếng ngọc. Tất nhiên từ gốm men ngọc đến sứ men ngọc có một khoảng cách lớn về các giá trị thẩm mỹ khác nhau. Giữa gốm men trắng và gốm men ngọc có mối quan hệ qua lại mật thiết và vô số sản phẩm trung gian hình thành.

Con người thời Lý rất sang trọng, đồ đạc của họ nói lên điều đó. Chúng ta không biết người thời Lý ăn những món gì, nhưng đồ đựng của các món ăn cho thấy họ có cuộc sống lịch thiệp quý phái, có sự tinh tế mà đơn giản. Những chiếc bát hình bông hoa sen, hoa súng được chuốt các lớp cánh hoa nổi nhẹ lên thành gốm, miệng lượn cong hoặc trổ khuyết nhẹ từng điểm cách đều nhau, cầm cái bát trên tay mà như hứng một đóa hoa đang nở. Những chiếc ấm men trắng và hoa nâu thời Lý vừa đúng công dụng tùy từng kích cỡ, vừa đẹp mỹ mãn. Có những chiếc ấm tu chỉ nhỏ như quả quít, tức là người ta dùng cái ấm đó để uống luôn chứ không cần rót nước ra chén. Những chiếc ấm pha trà, đựng rượu có thể tích lớn như quả dưa bở hình khối rất nở nang, chân thắt nhỏ lại miệng loe cao và vòi nhỏ như một núm nổi trên thành mặt cong. Lại có cả những đồ đựng chiêu rượu hình con vẹt, hình tiên nữ đầu người mình chim (con Kinnari), mà lại có cả một đôi đực cái. Đồ đựng phấn là một chiếc hộp hai nửa chạm nổi cánh sen bên trong trổ hoa cúc dây, các quý cô quý bà sẽ nhón chút phấn hoa từ đó mà thoa lên má… Chỉ có những xã hội phát triển có tính tổ chức cao, lấy đạo Phật di dưỡng tinh thần, mới có thể sinh ra được những sản phẩm phổ biến và đặc trưng như vậy. Trong xã hội đó không có chỗ cho sự phàm ăn tục uống, sự nhỏ nhen và tỵ hiềm, một xã hội có vẻ rất bình an và đi tới bình an.

Xã hội Lý và xã hội Trần có nhiều vấn đề cách biệt, nhất là khi nhà Trần phải ba lần vất vả chống Nguyên Mông, một thế lực hùng mạnh trên thế giới lúc bấy giờ. Nhà Trần phải giải quyết nhiều mặt về tinh thần xã hội đối với sự thay đổi của Phật giáo sao cho thích hợp với thời cuộc, và giữ sự cân bằng cho đời sống dân sinh. Cái không khí hùng tráng của những trận đánh chống Nguyên Mông tạo ra âm hưởng cho nhiều nghệ thuật và văn thơ, trong đó có gốm. Gốm thời Trần bớt đi vẻ tinh nhã của gốm Lý, thay vào đó là sự bề thế, mạnh mẽ, cái đẹp của trí lực. Những chiếc bát chân cao cho thấy người cầm nó cũng cần phải khỏe tay, những chiếc thạp gốm khắc hình hoa sen và bôi mầu nâu với hình khối lớn kết hợp hình dáng hoa quả và hoa sen, trở nên độc đáo không thời nào có được. Gốm hoa nâu thời Trần có vẻ gần gũi với nghệ thuật tạo hình hơn là đồ gốm có công năng.

Tục hỏa táng và cải táng có lẽ phổ biến trong tang ma của người Việt thời Trần. Cải táng mang tính truyền thống của dân Việt cổ, và hỏa táng do ảnh hưởng của Phật giáo từ Ấn Độ. Những chiếc thạp gốm lớn chính là một đồ vật dùng trong nghi lễ cải táng, nghĩa là sau khi bốc mộ, hoặc thiêu, thì cốt hay tro hài của người chết sẽ được đựng trong những chiếc thạp. Đôi khi người ta làm hai cái thạp lồng vào nhau, cái to đựng cái bé, cái bé đựng di hài. Những chiếc tháp kép được làm rất cầu kỳ: một tiêu bản của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cho thấy thạp nhỏ được nung trước (nung tới đâu, còn chưa biết), sau đó đặt thạp nhỏ vào trong thạp lớn chưa nung, rồi nung cả hai. Quá trình nung cả hai như vậy đôi khi hai sản phẩm co ngót khác nhau và làm hỏng cả hai. Đây là một kỹ thuật khá cao. Cốt gốm hoa nâu đương nhiên rất dày so với gốm trắng và gốm men ngọc, và với nhiều đồ đựng lớn, gốm hoa nâu được cấu tạo nhiều phần lắp ghép: nắp – miệng – vai – thân – chân đế. Xu hướng sản xuất chuyên nghiệp và tạo hình đơn giản quán xuyến nền gốm thời Trần.

Trong cốt gốm Lý - Trần thành phần gồm cao lanh và đất sét, hàm lượng cao lanh chỉ chiếm 50% đến 60%; khi nung ra, mầu của đất khá xám chứ không được trắng như gốm Trung Quốc (mỏ cao lanh nằm ở Giang Tây, được coi có chất lượng tốt nhất thế giới, đến mức chẳng cần bất kỳ một máy móc nào để khử từ - loại bỏ các nguyên tố sắt trong đất cả). Mỏ đất sét trắng ở Việt Nam cho loại cao lanh trung bình, và có ở mỏ Trúc Thôn (Hải Dương), Giếng Đáy (Quảng Ninh). Về chất lượng cao lanh như vậy, gốm Đại Việt không tài nào nâng lên thành đồ sứ được cả. Muốn nung thành đồ sứ, trong nguyên liệu phải có đá bạch đôn tử, theo như Vương Hồng Sển, trong cuốn Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa, tỷ lệ pha trộn là 75% cao lanh, 25% bạch đôn tử. Cốt gốm Lý - Trần cũng được pha thêm bã thực vật, sau khi thành phẩm, cốt tương đối xốp và nhẹ. Người ta cho rằng do đặc điểm của cốt gốm không bạch đôn tử như vậy, nhiệt độ nung của gốm Lý - Trần chỉ đạt tối đa là 1.200 độ C, nên lò nung nhiệt cao là không cần thiết, nếu cốt gốm đó mà nung trên 1.270 độ C thì cấu trúc dễ vỡ hoặc giòn quắt, hoặc tự vỡ. Theo phán đoán thì nhiệt độ nung của gốm Lý - Trần đạt từ 1.100 độ - 1200 độ C.

Men trắng gốm Lý - Trần được chế từ phù sa và tro củi; men nâu từ oxit sắt và sunfua thủy ngân; men ngọc từ oxit sắt và oxit đồng. Trên gốm hoa nâu, người ta thường gạt đi một số chỗ men trắng để bôi mầu nâu, có thể làm theo hai cách: nền trắng hoa văn nâu, hoặc ngược lại nền nâu hoa văn trắng. Mầu nâu chế tạo từ đá son, bản chất của mầu nâu đỏ và đen chế từ các oxit sắt và một thành phần nữa là sunfua thủy ngân, cái này nằm trong đá chu sa, thần sa. Mầu đen cũng chỉ là biến thể của mầu nâu. Mầu lục của gốm men ngọc do sự tham gia của oxit đồng, nhưng ít hơn nhiều so với sử dụng oxit sắt và oxit đồng tạo ra mầu xanh khi nung trong môi trường oxy, thực chất là oxit sắt được nung trong môi trường khử, tức là môi trường thiếu oxy, tạo ra lửa hoàn nguyên. Công thức thì đơn giản như vậy, nhưng gốm luôn luôn là bí ẩn, phụ thuộc vào nhiệt độ lò nung tạo ra các phả ứng hóa học cụ thể với cốt và men gốm, cùng kinh nghiệm của người thợ. Kết quả của sản xuất gốm thủ công không lần nào giống lần nào, chỉ có thể tạo ra các sản phẩm tương tự chứ không lặp lại chính xác như gốm sứ công nghiệp. Các sắc độ mầu trên đồ gốm Lý - Trần, ra rất phong phú, nhìn thoáng qua thì thấy giống nhau, nhưng đặt cạnh từng đồ, mầu sắc rất khác. Mầu men ngọc biến đổi từ xanh ngọc bích, xanh lục nhạt, lục sẫm, lục vàng, lục tím, tím xanh thẫm. Mầu trắng cũng biến đổi vô cùng, trắng, trắng nhờ nhờ, trắng ngả vàng, trắng ngả xanh nhạt, trắng vàng, vàng và vàng sẫm. Mầu nâu có từ nâu đỏ, nâu vàng, nâu nhạt, nâu đậm, mầu nâu bánh mật, nâu sẫm, nâu rất sẫm, nâu đen và đen.

Hiện nay nhiều người đã mày mò trở lại phục chế gốm Lý - Trần và cũng đạt đến những hiệu quả nhất định, nhất là trong lĩnh vực gốm hoa nâu. Với gốm men ngọc, sản phẩm phục chế còn rất vụng dại. Gốm trắng và gốm đen tưởng là dễ nhưng lại khó phục chế nhất. Riêng cái tinh thần, sự cao nhã mà thô phác của gốm Lý - Trần thì con người hiện nay không có cách gì trở lại được. Nó sinh ra từ hai thời đại khởi đầu của nền độc lập dân tộc, từ sự thông tuệ và từ bi Phật giáo, sự hào sảng của những cuộc chiến chống ngoại xâm… - tất cả những yếu tố xã hội đó mới quyết định giá trị thẩm mỹ của một đồ gốm Lý - Trần rồi mới đến những vấn đề kỹ thuật.

Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

Kỷ niệm 150 năm Đảng XHDC Đức

Diễn văn của Tổng thống CHLB Đức,
Joachim Gauck,

tại lễ kỷ niệm 150 năm ngày thành lập
Đảng Xã hội dân chủ Đức (SPD)

Nguyễn Trungdich, chú giải, và bình luận

Leipzig, 23 tháng 5 năm 2013

          Một dịp hiếm có và đầy tự hào đoàn tụ chúng ta tại đây hôm nay: Đảng Xã Hội Dân Chủ Đức kỷ niệm lần thứ 150 ngày sinh của mình. Không một đảng nào khác tồn tại lâu như vậy, bởi lẽ những mục tiêu phấn đấu cơ bản của đảng này đã và luôn luôn có tính thời sự với nội dung mới, đó là: Các quyền tự do, công bằng xã hội, quyền tham dự vào chính trị.

          Đây là ngày kỷ niệm của đảng lâu đời nhất nước Đức. Đây cũng là ngày lễ của châu Âu đấu tranh cho tự do và dân chủ. 150 năm này là cả một thiên lịch sử đầy những thắng lợi và thất bại, những cuộc chiến tranh khủng khiếp và tàn bạo, các cuộc nổi dậy và sự đàn áp; có thể nói đấy là các cuộc nổi dậy luôn luôn với nhận thức cho rằng các xã hội có thể thay đổi, dân chủ là có thể thực thi, nếu như chúng ta hiểu rõ được chúng ta phấn đấu, bảo vệ hay phải giành lấy những giá trị gì, và nếu như chúng ta đủ dũng cảm vượt qua được mọi đàn áp.

          Mọi chuyện tùy thuộc vào việc chúng ta đã và luôn luôn dám đối mặt với tâm trạng cảm thấy mình bất lực, dám như thế vì chính mình và vì những người khác, dám tiến tới những bước phát triển mới. Với ý chí không gì lay chuyển nổi, nhiều nam nữ đảng viên Đảng Xã hội Dân Chủ Đức đã phấn đấu như vậy trong suốt quá khứ đầy biến động của đảng mình, dám xả thân cho niềm tin của mình, để đẩy mạnh phong trào, để giành được sự công nhận của xã hội, giành lấy sự tồn tại của chính mình, và nhiều người đã hy sinh.

          Những con người dũng cảm này gửi lại chúng ta di chúc: Không nên coi lễ kỷ niệm hôm nay chỉ là “nơi để tưởng nhớ”. Nhìn vào nhiệm vụ của mình trong tương lai, chúng ta phải tự hỏi: Khẩu hiệu “Tiến lên!” (“Vorwaerts!”) [1]  của hôm qua sẽ có ý nghĩa gì đối với triển vọng sắp tới nhìn từ hôm nay?

          Xin các quý vị hãy cho tôi bắt đầu từ năm 1863, xin hãy nhớ đến sự nghèo khốn, sự bóc lột, nhớ đến những điều kiện lao động mà ngày nay chúng ta chỉ thấy ở một số nước đang phát triển mà chúng ta từng phê phán; xin thưa đấy cũng chính là đời sống ngột ngạt thường ngày của hàng triệu người Đức thời đó. Thử hỏi những người thời ấy dám nổi dậy đấu tranh sẽ có thể lựa chọn như thế nào: Nên chăng đấy sẽ là sự nổi dậy để dẫn đến cách mạng, để rồi lại thiết lập nên một nền thống trị mới của những người trước đó đã từng bị áp bức? Tình hình đã đến mức gần xảy ra một kịch bản như thế. Nhưng Ferdinand Lassalle – người đã từng trải qua cuộc cách mạng 1848 ở tỉnh Rhein – đã tìm thấy đáp án khác cho nghèo khốn và áp bức. Ngày nay trong tai chúng ta chúng ta vẫn còn vang lên cương lĩnh của ông: Thay đổi xã hội bằng chính sách giải phóng con người, nhằm tạo ra sự tham gia của quảng đại quần chúng nhân dân vào chính sự. Mục tiêu này trước hết bao gồm giáo dục, cưỡng bách giáo dục đối với mọi người, đương nhiên bao gồm cả những nghiệp đoàn giáo dục tự lập của công nhân nhằm giúp mỗi cá nhân có thể thăng tiến nhờ có hiểu biết qua học hỏi. Giải phóng con người  bằng cách thực hiện tham gia vào các quyền đã ghi thành luật, nhất là bằng cách mỗi người tự nâng cao quyền năng của mình. Cách đây 150 năm những đòi hỏi này là cách mạng, và hôm nay vẫn còn rất hiện đại.

          Trong thời kỳ Đảng Xã hội Dân chủ Đức mới được thành lập, đương nhiên phải đặt cuộc đấu tranh vì những quyền bình đẳng của cộng đồng công nhân bị áp bức lên trước. Cương lĩnh Eisenach năm 1869 ghi rõ, đấy là bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt về đẳng cấp xã hội của những người tham gia bầu cử, là cấm lao động trẻ em, là các tòa án phải độc lập.

          Trong cuộc đấu tranh triền miên trong nội bộ đảng XHDCĐ, cuối cùng quan điểm đã thắng thế là: không thiết lập một đặc quyền giai cấp mới nào. Vì không thể đáp trả sự bất bình đẳng bằng cách thiết lập nên một sự bất bình đẳng mới. Hơn ba thập kỷ sau khi Lassalle thành lập ĐXHDCĐ, Eduard Bernstein, nhà lý luận nổi tiếng và cũng là người bị đả kích rất nhiều của ĐXHDCĐ, đã mô tả: “dân chủ phải vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu”. Đối với tôi, trong nhãn quan chính trị mới này hàm chứa một trong những cống hiến lịch sử vĩ đại nhất của đảng XHDCĐ.  Hồi ấy, ĐXHDCĐ đã rất sớm làm cho dân chủ có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng trong một bộ phận đáng kể của tầng lớp công nhân và phong trào xã hội chủ nghĩa ở nước Đức. Chính là ĐXHDCĐ đã đấu tranh cho cải cách, chứ không phải cho việc làm cách mạng. Và cũng chính là ĐXHDCĐ đã kiên trì  con đường của mình và cuối cùng đã vận động được đa số tham gia, với cái đích là cải thiện từng bước cụ thể đời sống con người, thay vì công bố những mục tiêu không tưởng xa vời.

          Nhưng phong trào cộng sản thế giới đã quyết định cho mình con đường khác – hiển nhiên với những hệ quả vô cùng khủng khiếp. Phong trào này đã thiết lập nên một giai cấp nắm quyền mới, và thay thế sự thống trị cũ bằng một sự thống trị mới. Còn tự do, công bằng xã hội, sự ấm no… người công nhân phải mong ngóng một cách vô vọng.

          Chính vì thế, ngày nay chúng ta càng đánh giá cao những nỗ lực cải cách của phong trào xã hội dân chủ. Nhờ những nỗ lực này, chúng ta lần đầu tiên có được Luật Bảo hộ lao động, Luật về Quyền tham gia bầu cử của phụ nữ, và nhiều điều khác nữa. Thể chế dân chủ đầu tiên của nước Đức – cụ thể ở đây là Nền Cộng hòa Weimar – sẽ không thể thiết lập được, nếu như các đảng viên xã hội dân chủ - đứng đầu là Friedrich Ebert và Philipp Sheidemann – không có can đảm phấn đấu cho sự hợp tác chính trị với những lực lượng to lớn khác của các đảng phái tư sản. Đặc biệt là, các đảng viên xã hội dân chủ đã đấu tranh kiên cường hơn, bền bỉ hơn nhiều nhà dân chủ khác trong việc bảo vệ nền cộng hòa này. Các đảng viên xã hội dân chủ đã nêu cao lý tưởng của mình về tự do, bình đẳng và đoàn kết, quyết đấu tranh chống lại mọi kẻ chỉ muốn áp bức và chiến tranh.

          Không thể nào quên bài nói của Otto Wels ngày 23-03-1933 tại Quốc hội Đức, giữa lúc quốc xã đã bắt giam nhiều người chống đối, đồng thời khiến nhiều người chống đối khác phải sống lưu vong. “Người ta có thể tước đoạt mạng sống và tự do của chúng tôi, nhưng danh dự của chúng tôi thì không bao giờ!..”  Bài nói ấy của Otto Wels quả là “can đảm nhất chưa từng có tại Quốc hội Đức” - đúng như Peter Struck đã nhận xét.

          Chúng ta nên ghi nhớ, bằng cách nói “Không!” với cái  gọi là Đạo luât Ủy quyền[2], hồi đó 94 nghị sỹ của ĐXHDCĐ chẳng những đã cứu danh dự của chính mình, mà còn cứu cả danh dự của thể chế dân chủ đầu tiên của nước Đức (nền Cộng hòa Weimar – ND chú giải). Những con người ấy đã hiến tặng mọi người Đức chúng ta một trang sử chính nghĩa của dân chủ - đấy cũng là sự đối nghịch hoàn toàn đối với tội lỗi và sự hổ thẹn (của sử nước Đức – ND chú giải), đấy cũng là một kinh nghiệm quý báu cho thấy con người ta có thể kiên định với những giá trị của mình - cho dù bị bêu giếu, bị làm nhục, bị đầy đọa. Ngày nay chúng ta trân trọng với tinh thần biết ơn sự can đảm của họ.

          Trong hàng ngũ những người này có Kurt Schumacher, một trong những nghị sỹ đã bác bỏ cái gọi là Đạo luật Ủy quyền. Sau hàng chục năm bị giam trong trại tập trung, khi chiến tranh kết thúc, ông đã chống lại sự quyến rũ muốn thành lập một đảng công nhân bao gồm những người xã hội dân chủ và những người cộng sản. Bởi vì ông nhận ra rằng – xin trích lời ông – Đảng Cộng sản Đức “không phải là một giai cấp Đức, mà là một quốc đảng xa lạ”. Tại miền Đông nước Đức, Đảng Xã hội Dân Chủ Đức chính thống xưa kia mãi đến sau năm 1989 (khi CHDC Đức sụp đổ - ND chú giải) mới được tái lập. Tôi vô cùng biết ơn vì điều này.

          Ngược lại, ở miền Tây nước Đức, ĐXHDCĐ đã tham gia một cách có ý nghĩa quyết định cùng với những người thuộc đảng bảo thủ và đảng tự do, làm cho Cộng Hòa Liên Bang Đức có thể hoạt động có hiệu quả, với thẩm quyền rộng rãi, trở thành một “liên bang dân chủ và xã hội” như đã quy định trong Đạo Luật Cơ Bản, và chúng ta đều biết Đạo luật này được ban hành cũng ngày 23 tháng 5[3].

          Ngày nay chúng ta đều biết thể chế dân chủ của chúng ta thật vững chãi, cho dù đôi lúc suy yếu tùy theo tình trạng của các đảng phái. ĐXHDCĐ chẳng những có thể nhìn nhận lại truyền thống lâu đời nhất của mình. ĐXDCĐ còn phải thực hiện sự thay đổi rất sâu sắc từ bên trong. Đơn giản vì ĐXHDCĐ ngày nay không còn là đảng của giai cấp nữa. Trong quá trình học hỏi lâu dài và gian khổ,  ĐXHDCĐ đã phải tự phát triển mình để trở thành đảng của nhân dân. Cương lĩnh Godesberg năm 1959 đã xác định, củng cố và thúc đẩy sự cải tổ này.

          Đối với hầu hết chúng ta, những cống hiến của ĐXHDCĐ cho CHLBĐ thật rõ ràng. Tôi xin kể ở đây những cải cách xã hội được tiến hành trong những năm thập niên 70 dưới thời Willi Brandt, giai đoạn đầu tiên đổi mới của Chính sách phương Đông mở cửa hướng sang Cộng Hòa Dân Chủ Đức và các nước láng giềng Đông Âu, chính sách này đã giúp vén lên bức màn sắt.

          Cuốn phim (chiếu trong lễ kỷ niệm này – ND chú giải) cũng cho chúng ta thấy những cống hiến của Thủ tướng Liên bang Helmut Schmidt và Gerhard Schroeder, cả hai vị này hôm nay cũng có mặt tại đây cùng với chúng ta. Các nhiệm kỳ thủ tướng của hai vị gắn liền với những cống hiến lâu bền của ĐXHDCĐ đối với CHLBĐ.

          Trong suốt 150 năm qua vấn đề cốt lõi của xã hội dân chủ là: xã hội đoàn kết, thể chế dân chủ thường xuyên được cải thiện. Nhưng trong thế giới thay đổi ngày nay, nhiều thách thức mới đang đặt ra cho ĐXHDCĐ cũng như cho các đảng khác. Trong đó vấn đề trung tâm là các đảng phải luôn luôn là một bộ phận của một xã hội công dân tự lớn mạnh, và nhờ đó luôn luôn tạo ra được những mối ràng buộc vững chắc cho một chương trình chính trị tổng quát (được hiểu là  chiến lược phát triển – ND chú giải).

          Nhiệm vụ này không hề dễ, bởi vì trong những năm qua chúng ta đã chứng kiến nhiều phong trào phản đối; những phong trào này nhiều khi cực đoan hơn các chính đảng, thường tập trung chỉ vào một vấn đề, và những phong trào này tư coi mình là đối thủ của các đảng. Những phong trào này cho thấy nhiều công dân muốn phải có tiếng nói của mình. Tôi hoan nghênh và ủng hộ điều này. Các đảng không nên lo sợ về hình thức tham gia này của công dân, mà ngược lại nên coi đấy là một hệ thống cảnh báo sớm, để nhờ đó có thể luôn luôn đi cùng với thời cuộc. Về phần mình, các đảng cũng cần phải có những phương thức tham chính mới, để từ đó làm cho sự năng động của mình tìm thấy hướng đi trong cuộc sống hàng ngày của nền dân chủ đại nghị của chúng ta. Tóm lại: Hình thức tham chính mới có một vai trò bổ sung quan trọng, nhưng dứt khoát không thay thế cho dân chủ đại diện.

          Một lần nữa chúng ta hãy nghĩ xem, điều tôi vừa trình bầy có thể thấy rõ trong vấn đề: Các sáng kiến của công dân thường đại diện  những mối lợi ích riêng biệt – nhìn chung là chính đáng; trong khi đó ngược lại các đảng phải hướng về cái chung nhiều hơn, phải để mắt vào cái tổng thể. Thậm chí đôi khi các đảng có thể thành công trong việc tác động vào những cử tri của mình để lựa chọn những quyết định mâu thuẫn với đường lối hiện hành đến nay hoặc những lợi ích ngắn hạn của đảng. Tôi hiểu, trong phạm vi nội bộ một đảng điều này không được ưa chuộng lắm. Nhưng mà chúng ta đã chứng kiến: Chính những quyết định như thế thường là những quyết định có ý thức trách nhiệm đối với cả nước.

          Hôm nay tôi chúc mừng ĐXHDCĐ 150 tuổi. Cho tôi nói lời cảm ơn và đánh giá cao đối với những người suốt 150 năm qua đã đấu tranh cho tự do, công bằng và đoàn kết và qua đó đã cải thiện đời sống của hàng triệu người.

          Cùng với lời cảm ơn ĐXHDCĐ, tôi đánh giá cao tất cả những ai đang hoạt động trong các đảng dân chủ vì hạnh phúc của tất cả chúng ta – dù đấy là các hiệp hội tại các địa phương hay là trong khung khổ Chính sách Châu Âu, dù họ là làm việc nghiệp dư hay chuyên nghiệp. Cống hiến của họ đã góp phần vào những thành tựu trong nền dân chủ của chúng ta. Vì vậy tôi cũng xin chúc mừng tất cả chúng ta việc chúng ta có các đảng dân chủ. Các đảng này do con người tạo ra, vì thế chúng không hoàn hảo và không tránh khỏi thiếu sót, cho nên cần luôn luôn thực hiện phê bình, tự phê bình và phải chịu học. Các đảng dân chủ ở nước ta là cần thiết cho sự sống của nền dân chủ ở nước ta, và trong tương lai cũng không thể nào thiếu chúng. Với ý nghĩa ấy, xin nhiệt liệt chúc mừng sinh nhật (của ĐXHDCĐ – ND chú giải)!





Một vài cảm nghĩ của người dịch

          Như một phản xạ tự nhiên, đọc xong bài diễn văn này, tôi liên hệ ngay đến nước ta, mặc dù toàn bộ câu chuyện của diễn văn xẩy ra ở nước Đức xa xôi, nghĩa là  – nhìn theo góc cạnh nào đó – chẳng dính dáng tí teo nào đến nước ta.

          Suy nghĩ của tôi đơn giản: Lịch sử 150 năm của ĐXHDCĐ (SPD), về mặt nào đó mà nói cũng phản chiếu lịch sử thất bại của Đảng Cộng Sản Đức và sau này là Đảng Xã hội Thống Nhất Đức – đảng cầm quyền ở Cộng Hòa Dân Chủ Đức kể từ khi nhà nước này được thiết lập năm 1949, cho đến khi nó bị chính nhân dân của mình lật đổ năm 1989. Thực tế này gợi lên nhiều điều phải suy nghĩ. 

Hai trào lưu: Cải cách và cách mạng vô sản

Trước hết xin thưa, cách dây 150 năm, hoặc thậm chí ít nhiều sớm hơn nữa, lịch sử phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới nói chung và ở nước Đức nói riêng, ngay từ đầu – trước cả khi Marx bước lên vũ đài chính trị với Tuyên Ngôn Cộng Sản - cũng là lịch sử của hai trào lưu đấu tranh khác biệt nhau và đối lập nhau khủng khiếp, gần như giữa nước và lửa. Một bên là trào lưu xã hội dân chủ - được những người mác-xít đặt cho cái tên là “cải lương”, còn một bên là trào lưu của cách mạng chuyên chính vô sản. Cuộc đấu tranh giữa hai trào lưu này – mặc dù cả hai đều thuộc về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế - càng về sau càng đối kháng nhau quyết liệt, chẳng kém gì đấu tranh với kẻ thù giai cấp. Chỉ xin điểm lại, các nhà lý luận mác-xít – kể từ Marx, Lénin trở xuống – đã giành cho trào lưu cải lương và toàn bộ cánh xã hội dân chủ sự bác bỏ tuyệt đối, với những lời lẽ và việc làm nặng nề nhất, không hiếm khi rất đẫm máu trong các chính quyền xô-viết và cộng sản sau này – dù ở châu Âu hay châu Á.

Nhân dịp này, nhìn lại phong trào cộng sản và công nhân thế giới 150 năm qua, có thể khẳng định: Tư tưởng của trào lưu cách mạng vô sản là thực hiện khát vọng xây dựng một xã hội mới không người bóc lột người - mang tên là chủ nghĩa xã hội, với 2 đặc trưng xuyên suốt: Thực hiện chuyên chính vô sản và công hữu hóa tư liệu sản xuất. Sau những bước phát triển ban đầu, phong trào này đạt tới đỉnh cao là thiết lập nên hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa gồm 12 quốc gia, bao gồm toàn Đông Âu và một phần lớn châu Á,  sau này có thêm Cuba.

Hệ thống các quốc gia XHCN này có ảnh hưởng quan trọng tới phong trào độc lập dân tộc trong 2 thập kỷ đầu tiên sau chiến tranh thế giới II, qua đó chi phối 1/3 quả địa cầu. Hệ thống thế giới XHCN phân rã rất sớm, đạt tới hồi kết là sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô Đông Âu trong các năm 1989 – 1991.

Sau chặng đường 150 năm kể trên, cuối cùng thế giới ngày nay đã chứng kiến sự phá sản và thất bại hoàn của trào lưu cách mạng vô sản dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời thế giới cũng chứng kiến: Trào lưu xã hội dân chủ là một trong những yếu tố quyết định đem lại những thành quả quan trọng cho công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động ở hầu hết các nước phát triển – đặc biệt là các nước Bắc Âu. Trong những thành quả ấy, trước hết phải nói tới các quyền tự do, dân chủ của cá nhân con người, các điều kiện để mỗi con người ngày một tự nâng cao quyền năng của mình trong một chính thể dân chủ, cuộc sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân lao động ngày một cải thiện và nâng cao cùng với sự phát triển của đất nước.

Có thể nói một cách tổng quát: Sự phát triển của các nước công nghiệp, kể cả những tiến bộ đạt được trong thể chế chính trị và đời sống văn hóa – xã hội, có sự đóng góp không thể thiếu của trào lưu xã hội dân chủ. Nếu muốn, có lẽ cũng có thể nói: Do sự vận động  bên trong như vậy – trước hết được hiểu là những thắng lợi của trào lưu xã hội dân chủ - và  và do những thay đổi trên thế giới,  chủ nghĩa tư bản tại các nước công nghiệp này đã ngày một bớt đi “mùi đế quốc chủ nghĩa”. Ở phạm vi toàn cầu, chính sự vận động này đã góp phần từng bước đẩy lùi chủ nghĩa đế quốc trên thực tế. Đấy chính là xu thế vận động của thế giới đã diễn ra từ nửa sau thế kỷ 20 và đang tiếp diễn.

 Bản kết toán của trào lưu cách mạng vô sản tại các nước LXĐÂ nói ngắn gọn là: (1)chỉ thành công trong bạo lực đập tan (ở Nga) hay xóa bỏ (ở các nước Đông Âu) sự thống trị của giới cầm quyền áp bức đương thời, (2)nhưng thất bại hoàn toàn trong xây dựng một chế độ xã hội mới; nội dung cốt lõi được đề xướng thành lý tưởng của trào lưu này là giải phóng con người cuối cùng chỉ còn là một khẩu hiệu không tưởng, (3)trên thực tế giai cấp công nhân và nhân dân lao động cuối cùng lại trở thành kẻ bị chính những đồng chí của mình áp bức thống trị trong chế độ toàn trị mới. Chính 3 kết quả cụ thể này trong bản kết toán là những nguyên nhân quyết định, trực tiếp dẫn tới sự sụp đổ của các nước XHCN Liên Xô - Đông Âu 1989-1991.

Trong khi đó, tại các nước công nghiệp có trào lưu xã hội dân chủ phát triển mạnh  – dù là ở Tây Âu hay Bắc Âu – những thành quả tự do, dân chủ và cuộc sống phồn thịnh dành cho con người ngày càng cao và bền vững hơn. Dù chẳng bao giờ hết những vấn đề xấu tồn đọng, song cho đến nay chưa có một nước phát triển nào sụp đổ. Hơn nữa, những quốc gia này luôn luôn tìm được lối thoát ra khỏi mọi cuộc khủng hoảng để đi tiếp. Nhìn chung, thực tế cuộc sống thừa nhận các nước phát triển hiện nay đang là đầu tầu của đoàn tầu thế giới.

Thực tế trình bầy trên khẳng định: Trào lưu xã hội dân chủ tiếp tục có sức sống và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nguyên nhân thật dễ hiểu: Trong bất kể nấc thang phát triển nào của mỗi quốc gia, tự do và các quyền dân chủ cụ thể của công dân luôn luôn là khát vọng thường trực thôi thúc và làm nên con người; cộng đồng ngày càng đông những con người tự do và có quyền năng như vậy trong mỗi quốc gia chính là động lực phát triển quyết định của quốc gia ấy. Hơn thế nữa, tự do và dân chủ là tiền đề cho đòi hỏi tất yếu của đa nguyên chính trị làm nên sức sống quốc gia trong thời đại ngày nay.

Trong khi đó, chủ nghĩa bao giờ và ở bất kỳ đâu cũng chỉ là một giáo điều, trong quá trình vận động luôn luôn bị biến dạng thành tín điều, và cuối cùng bị lợi dụng thành công cụ chuyên chính bóp chết tự do - dân chủ và quyền con người.

Không có chủ nghĩa Mác – Lênin bách chiến bách thắng 

Cần lưu ý một sự thật lịch sử: Cách mạng vô sản xóa bỏ chế độ thống trị đương thời thật ra cho đến nay mới chỉ thành công duy nhất ở nước Nga mà thôi. Thực tế này trái hẳn với dự báo nêu trong Tuyên Ngôn Cộng Sản. Từ những gì quan sát được trên thế giới 150 năm qua cho đến hộm nay, còn có thể nói: Cách mạng Tháng Mười Nga có lẽ cũng là cuộc cách mạng vô sản cuối cùng.

Tại các nước Đông Âu không hề có một cuộc cách mạng vô sản nào cả để vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, dù rằng phong trào cộng sản và công nhân tại những nước này phát triển rất sớm. Hoàn toàn không sai nếu nói rằng: Sự giải phóng của Hồng quân Liên Xô, vai trò tác động của Liên Xô sau chiến tranh thế giới II, và phong trào cộng sản tại các nước Đông Âu là các nhân tố trực tiếp dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa tại các quốc gia này.

Nhưng đúng là chủ nghĩa Mác – Lênin đã được các nước LXĐÂ vận dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khoảng 4 thập kỷ tồn tại, các chế độ xã hội chủ nghĩa này phá sản hoàn toàn. Năm 1989 các nước XHCN Đông Âu sụp độ. Liên Xô, thành trì của chủ nghĩa xã hội và cũng là dinh lũy của chủ nghĩa Mác – Lênin, sụp  đổ cuối cùng năm 1991.

Chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) - phần liên quan đến đấu tranh giai cấp, đến đấu tranh giữa 2 còn đường ai thắng ai?[4] chống chủ nghĩa đế quốc - là một trong những yếu tố quan trọng (không phải yếu tố quan trọng duy nhất) đối với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc tại Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, và sau này có thêm Cuba. Chính thực tế này đã xác định con đường đốt cháy giai đoạn để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội sau khi các quốc gia này giành được độc lập. Nói một cách khác, thảm bại nghiêm trọng của những quốc gia này khi bắt tay vào xây dựng CNXH trong thời bình là tất yếu (ở Việt Nam đã có lúc khẩu phần lương thực phải có cả hạt bo-bo!), vì sự thất bại này đã được lập trình và cài đặt sẵn ngay từ lúc còn kháng chiến.

Bản kết toán của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước Liên Xô - Đông Âu cũ cũng giữ nguyên vẹn tại 4 quốc gia này. Nguyên nhân cơ bản vẫn là sau khi giành được độc lập, con đường chuyên chính vô sản và công hữu tư liệu sản xuất không cho phép 4 quốc gia xã hội chủ nghĩa đi sau này  thành công trong những nhiệm vụ của phát triển và giải phóng con người. Cả 4 nước này buộc phải xé rào ý thức hệ mác xít – lê-nin-nít, để cải cách – (1)với nhãn hiệu là “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, (2)hoặc để đổi mới như ở Việt Nam – với cái tên gọi mới là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, (3)hoặc là đã phải vứt bỏ tuốt luột chủ nghĩa Mác – Lênin để thế vào đó bằng “thuyết chủ thể” như ở Bắc Triều Tiên, (4)hoặc hiện nay đang phải quay về tìm kinh tế thị trường nhưng chưa muốn dân chủ cải cách chính trị như ở Cuba. Kết quả đạt được của quá trình cải cách ở cả 4 quốc gia này nhìn chung còn khá mờ nhạt tính xã hội và nhân văn, nhưng vẫn mang đặm ở các mức độ khác nhau mầu sắc của chủ nghĩa tư bản hoang dã (có người muốn gọi là chủ nghĩa tư bản dã man – nhất là ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên), nội dung thật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa vẫn là chế độ độc quyền toàn trị, cái nhân dân lao động được quá nhỏ bé so với cái họ mất.

Riêng ở chỗ đứng hôm nay của nước ta sau 38 năm độc lập thống nhất, còn phải nói thêm: Sự tha hóa của đảng cầm quyền đang phạm phải làm cho cái giá phải trả cho độc lập thống nhất đất nước đắt quá. Ngoài sự ngột ngạt của chế độ độc quyền toàn trị, đất nước đang bị uy hiếp nghiêm trọng, lòng tin của nhân dân vào chế độ chính trị và vào vai trò của ĐCSVN chưa bao giờ khủng hoảng như hiện nay. 

 Bản kết toán hôm nay của chủ nghĩa Mác – Lênin trên thế giới phải chăng là:

Chủ nghĩa (hay học thuyết) Mác, được Lênin tổng hợp và bổ sung thêm (phần vai trò của chuyên chính vô sản và đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc) thành chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) để dẫn đường cho sự nghiệp giải phóng con người và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã không thành công ở bất kỳ quốc gia nào. CNMLN với tinh thần và nội dung như vậy đã cáo chung, kể cả Glasnos hay Perestroika thời cuối trào Liên Xô cũng không cứu vãn nổi.Chưa nói đến việc chính Lênin trong những năm cuối đời đã muốn sửa đổi lại nó (đang viết lại trong NEP[5]), nhưng Lênin không còn đủ thời gian làm việc này. Chưa nói đến (1)học thuyết Marx và những ý tưởng giải phóng con người của Marx – như những gì Marx (phần nào cùng với Engels) đã  xây dựng lên và (2)chủ nghĩa Mác – Lênin về “chủ nghĩa xã hội khoa học” là hai câu chuyện khác nhau, không ít điều mâu thuẫn nhau, không ít học giả trên thế giới đã chứng minh điều này.

Trên thế giới ngày nay không còn tồn tại phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nữa. Trào lưu xã hội dân chủ trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng lớn mạnh cho đến khi các nước XHCN LXĐÂ sụp đổ, nhưng kể từ đó cũng đang ngày càng mờ nhạt đi rất nhanh, và bây giờ đang ngày càng hòa nhập vào các trào lưu khác trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Đơn giản: Một thế giới thay đổi đang đặt ra những vấn đề thời sự hoàn toàn khác, tạo ra những người tham gia cuộc chơi khác. 

Chủ nghĩa Mác – Lênin và  cái gọi là ý thức hệ cách mạng của Việt Nam 

          Mặc dù CNMLN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã cáo chung như vừa trình bầy trên, nhưng hiện nay, trong nhiều văn kiện chính thống của ĐCSVN, nhất là trong các phát ngôn của nhiều người lãnh đạo, trong các bài viết của một số chính khách, học giả của ĐCSVN đang tham gia hàng ngũ dư luận viên, trong những giải trình của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại Quốc hội (giải trình bản Dự thảo 5, ngày 17-05-2013), trong toàn bộ hoạt động của hệ thống báo chí “lề phải”.., chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang được tìm mọi cách để áp đặt vào dân, để được đưa vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Làm như thế nhằm mục đích gì?

          Trước hết cần xem xét CNMLN được nói tới trên diễn đàn lề phải là chủ nghĩa nào? Đó là CNMLN gốc, do Lênin tổng hợp lại? Hay là thứ đã được Stalin xô-viết hóa, rồi tiếp đến là thứ đã được “mao-ít” hóa, rồi vào đến nước ta lại được “Việt Nam hóa” tiếp cho hợp khẩu vị chuyên chính và trình độ phát triển ở nước ta? Tiếp đến nữa còn phải hỏi: CNMLN đang được nói đến trên mọi diễn đàn của dư luận viên hiện nay còn đọng lại hay được thêm thắt mới đến mức nào so với chính những giáo trình của các trường và các cơ quan nghiên cứu lý luận của ĐCSVN?

Nếu đọc lại các bài nói, bài viết rất khiên cưỡng một chiều đả kích, không cần lý lẽ giải thích, của các dư luận viên trên các diễn đàn “lề phải”, thậm chí còn phải nghi ngờ: Không biết các tác giả của những bài viết hay bài nói này đã đọc hay đã được học với đúng nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin hay chưa? Hay là chỉ học, chỉ biết lơ mơ về nó, được dậy tốt dậy xấu như thế nào, hay là được yêu cầu phải nói như thế nào, thì phát thanh lại như thế?! Một trong những cao điểm trí tuệ của các bải này làm nên sự nghi ngờ ở đây chính là sự hù dọa về nguy cơ “mất sổ hưu”!

Trong khi đó, như đã trình bầy ở các phần trên, sự thất bại của  CNMLN trong việc xây dựng CNXH trên toàn thế giới – kể cả ở Việt Nam – không còn là chuyện phải bàn cãi.

Hơn thế nữa, cứ lấy những điều cao đẹp hiện đang được nói về CNMLN nhân dịp sửa đổi Hiến pháp, đối chiếu với những gì đang xảy ra trong cuộc sống hàng ngày – như một chiều đả kích những ý kiến xây dựng trong việc sửa đổi Hiến pháp, nhất quyết bóp chết hay không cho phép mở ra các diễn đàn để nhân dân trao đổi ý kiến của mình về sửa đổi Hiến pháp, liên tiếp các bản án rất nặng trấn áp những người yêu nước bất đồng chính kiến với chế độ và những người chống Trung Quốc xâm phạm bờ cõi đất nước, sự đàn áp thô bạo những người đi biểu tình bầy tỏ thái độ bảo vệ biển đảo của Tổ quốc, nhìn vào tệ nạn tham nhũng và biết bao nhiêu bất công xã hội đang xảy ra hàng ngày trên đất nước, nhìn vào sự sa đọa của hệ thống chính trị cai quản đất nước, nhìn vào sự xuống cấp và tha hóa ngày càng trầm trọng của đời sống văn hóa - xã hội của đất nước..,  không thể không đặt ra câu hỏi: CNMLN đang được áp đặt ở đây thực chất có nội dung gì và nhằm mục đích gì?

Cũng phải đặt ra câu hỏi tư tưởng Hồ Chí Minh được nói đến trên các diễn đàn của dư luận viên là tư tưởng nào?

Tinh hoa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Tuyên ngôn Độc lập 02-09-1945, là Hiến pháp 1946, là tư tưởng Không có gì quý hơn độc lập tự do!, là đạo đức Cần kiệm liêm chính – chí công vô tư.., là Dân chủ có nghĩa là để cho nhân dân mở mồm ra nói!...

Xin hỏi có bất kỳ điều gì trong tinh hoa này của tư tưởng Hồ Chí Minh được tôn trọng, được vận dụng vào việc sửa đổi Hiến pháp lần này không?

Thậm chí hệ thống nhà nước cần được phân công nhiệm vụ, phân quyền kiểm soát lẫn nhau (tạm gọi là vấn đề “tam quyền phân lập” – như được thiết kế trong Hiến pháp 1946), nhưng được chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đích thân bác bỏ, với lập luận dứt khoát: Quyền lực nhà nước là thống nhất dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN…

Bác bỏ cách làm phô trương hình thức theo kiểu “26 triệu lượt ý kiến & 28 nghìn hội thảo…” để áp đặt, nhiều người đã hỏi thẳng lãnh đạo ĐCSVN: Sửa đổi Hiến pháp theo như cách đang làm thì sửa đổi làm gì? Chỉ thêm tốn tiền thuế của dân, công sức và thời gian của cả nước! Bản tuyên bố của nhóm 72 bác bỏ bản dự thảo 5 (ngày 17-05-2013) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nhận định: bản Dự thảo 5 thụt lùi so với Hiến pháp 1992 đang hiện hành.

Theo hay không theo ý thức hệ nào, tư tưởng nào, là quyền tự do của mỗi người. Nhưng áp đặt một ý thức hệ đã phá sản trên toàn thế giới, kể cả ở Việt Nam - cụ thể ở đây là CNMLN – vào Hiến pháp nước ta nhân dịp sửa đổi lần này nhằm mục đích gì?

Câu trả lời chỉ có thể là: Đây là sự áp đặt một công cụ chuyên chính tư tưởng và tinh thần, với mục đích phục vụ cho chuyên chính bạo lực, nhằm (a)bảo vệ chế độ độc quyền toàn trị nhân danh sự lãnh đạo của ĐCSVN, và (b)biện minh cho vị thế tối thượng bất khả xâm phạm của ĐCSVN để ghi vào Điều 4 của dự thảo Hiến pháp sửa đổi (bản dự thảo ngày 17-05-2013). Có lẽ vì hai lý do chủ yếu này, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã giải trình trước Quốc hội: Trước mắt không đặt ra vấn đề Luật về đảng trong sửa đổi Hiến pháp lần này. Giải trình như thế, khác gì tự xác nhận ĐCSVN đứng ngoài và đứng trên pháp luật, giữa lúc ĐCSVN kêu gọi cả nước sống và làm theo pháp luật!

Tuyên bố của nhóm 72 về bản dự thảo 17-05-2013 phân tích rõ:
-    Sự áp đặt này nhằm tiếp tục hiến định vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, cho thấy ĐCSVN quyết đứng trên và đứng ngoài Hiến pháp;
-    Sự áp đặt này hàng chục năm nay đã và đang trực tiếp hủy hoại vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, là nguy cơ xóa bỏ toàn bộ sự nghiệp lịch sử của ĐCSVN từ bên trong, triển vọng với nhiều hệ quả đẫm máu cho đất nước  – không một thế lực thù địch nào có thể làm nổi việc này;
-    Chế độ độc quyền toàn trị dưới hình thức “đảng hóa” mọi mặt đời sống đất nước ta là nguyên nhân gốc đẩy đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện hiện nay, với nhiều nguy cơ và thách thức mới rất nguy hiểm.

Tóm lại: Dùng một chủ nghĩa đã phá sản như một công cụ chuyên chính làm ngọn cờ khua trương cho một sứ mệnh chính trị không được phép tồn tại trong một nhà nước của dân – do dân – vì dân, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân có nghĩa trong thực tế là sự phủ nhận trực tiếp nhà nước này, là để tiếp tục duy trì chế độ độc quyền toàn trị nhân danh kiên trì con đường định hướng xã hội chủ nghĩa,  nhân danh sự lãnh đạo của ĐCSVN. Kịch bản đen tối này không thể là sự lựa chọn của nhân dân ta, cũng không mở ra cho ĐCSVN con đường tồn tại. Cưỡng bức nhân dân đi theo kịch bản đen tối này, hệ quả cuối cùng sớm muộn sẽ chẳng khác mấy là sự tự sát của chính người cưỡng bức.

Sửa đổi Hiến pháp lần này đang tạo ra một cơ hội khó mà có lại, để ĐCSVN tự tay trực tiếp xóa bỏ kịch bản đen tối này cho chính mình mà những tha hóa tự thân đang cuốn hút mình vào. Không ai có thể làm thay ĐCSVN việc này.

Với gần 4 triệu đảng viên, lại trực tiếp nắm mọi quyền lực trong tay, ĐCSVN là lực lượng chính trị mạnh nhất trong xã hội Việt Nam, chiếm tới khoảng gần 4 triệu gia đình, có ảnh hưởng trực tiếp / gián tiếp tới 1/3 hay hơn nữa dân số cả nước, chưa nói đến nhiều ảnh hưởng to lớn khác nữa. Vì thế, tối ưu cho ĐCSVN và cũng là cho đất nước, là xóa bỏ kịch bản đen tối nêu trên. Con đường Myanmar đang gợi ý ra cho ĐCSVN một hướng đi hiện thực: Tất cả cùng sống, tất cả cùng nhau khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ (bao hàm cả nghĩa không hồi tố), để cùng nhau theo tinh thần đoàn kết – hòa giải dân tộc mở ra một chương sử mới cho chính mình và cho đất nước, để từ nay mỗi người và cả đất nước trở thành chính mình: Xây dựng một đất nước tự do của những con người tự do. Đấy cũng là nguyện vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam ngày nay: Xây dựng một Việt Nam độc lập – tự do – hạnh phúc, để có được một Việt Nam đáng sống, không ai có thể ức hiếp, và cùng đi được với cả thế giới! Tìm đường cho nhân dân thực hiện khát vọng này, đấy mới chính là vai trò lãnh đạo mà ĐCSVN bây giờ phải lột xác phấn đấu để đạt tới. Đấy chính là con đường cứu đảng cứu nước mỗi đảng viên ĐCSVN bây giờ nhất thiết phải giác ngộ, chứ không phải cam tâm làm nô lệ của CNMLN đã bị cuộc sống loại bỏ - chỉ để phục vụ cho mục đích duy tri chế độ độc quyền toàn trị của một số người trong đảng đang giam hãm đất nước.

Trung thành với lịch sử chiến đấu vì nước vì dân của ĐCSVN, trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, đảng viên ĐCSVN bây giờ nhất thiết và trước hết phải chiến thắng chính mình, để chiến thắng sự sa đọa đang dìm đảng của mình vào tội lỗi, để đặt lại đảng của mình vào con đường đấu tranh vì nước vì dân đã từng làm nên sự nghiệp của đảng, nhất là để không phản bội lại những hy sinh, những mất mát của dân tộc, của đồng chí và đồng đội trên chặng đường gần một thế kỷ qua!

Các đảng viên ĐCSVN hãy bắt đầu từ việc thảo luận thẳng thắn trong đảng về thực trạng của ĐCSVN và của đất nước, về những vấn đề đang đặt ra cho việc sửa đổi Hiến pháp. Hãy bắt đầu từ việc đòi trả tự do cho tất cả những người yêu nức bất đồng chính kiến với chế độ đang bị cầm tù. Hãy phản đối đàn áp biểu tình bảo vệ tổ quốc. Hãy xóa bỏ phân biệt đối xử lề trái hay lề phải trong báo chí, để cho trong báo chí chỉ có lẽ phải, lòng yêu nước, ý chí bảo vệ tổ quốc!

Các đảng viên của ĐCSVN dù ở cương vị nào, nếu còn giữ đất nước trong tim mình, nhất thiết phải đứng lên như thế để cứu đảng của mình, và như thế cũng là cứu nước. Các đảng viên ĐCSVN đừng để cho đảng của mình rơi vào tình trạng mà một chính khách ở Liên Xô hồi đó đã phải thốt lên: ĐCS Liên Xô không thể cải tạo được nữa! Chỉ còn cách đập tan nó!

Đối nghịch lại, nếu các đảng viên ĐCSVN không phấn đấu lựa chọn con đường cứu đảng cứu nước, sẽ chỉ còn lại con đường của kịch bản đen tối, của tha hóa và tội lỗi. Đó là con đường cố tính đối kháng lại nhân dân, sớm muộn sẽ dẫn tới thảm họa nồi da xáo thịt cho đất nước, kết cục chắc chắn với sự phủ nhận dứt khoát của nhân dân cả nước dành cho ĐCSVN, với một màn chót không phải là không hình dung được. 

Người dịch tạm kết luận

          Thành, bại và cuối cùng là sự cáo chung của trào lưu cách mạng của chuyên chính vô sản trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế sau 150 năm tồn tại; gắn liền với chặng đường lịch sử này là sự cáo chung của chủ nghĩa Mác – Lênin với tính cách là cẩm nang cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; thành, bại và những thành tựu lâu bền của trào lưu xã hội dân chủ trên chặng đường 150 năm đồng hành này; thành và bại của chính thực tiễn 38 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta – bây giờ lùi xuống là định hướng xã hội chủ nghĩa, tất cả những thứ này có lẽ là đủ để cho chúng ta thấy:Thường xuyên mở rộng các quyền tự do, dân chủ rất cụ thể của mỗi công dân trong mỗi bước đi của đất nước, thường xuyên làm tất cả mọi việc để mỗi công dân luôn luôn tự nâng cao được quyền năng của mình từ hiểu biết và học hỏi, đấy mới là động lực sáng tạo, năng động và lâu bền cho sự phát triển của đất nước ta.

          Tận dụng cơ hội việc sửa đổi Hiến pháp đang mang lại, sẽ mở ra cho đất nước ta một con đường đi lên của tự do và dân chủ.

Đọc kỹ diễn văn 150 năm ĐXHDCĐ (SPD) của Tổng thống Joachim Gauck, tôi thấy thêm một bằng chứng sống động của nước Đức cho những điều trình bầy trên. Tôi tin như vậy, tôi cũng mong nhân dân nước ta vận dụng được lợi thế của nước đi sau./.

Võng Thị - Hà Nội, ngày 10-06-2013
Nguyễn Trung

 

[1] “Vorwaerts!” (“Tiến lên!”) là khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Xã hội Dân Chủ Đức, lấy từ cuộc đấu tranh của phong trào công nhân Đức cuối thế kỷ XIX. ND.
[2] Đạo luật trao những quyền hành đặc biệt cho chính quyền Hitler, qua đó phát xít hóa nước Đức, mở đường cho chiến tranh thế giới II. - ND chú giải.
[3] Đạo Luật Cơ Bản năm 1949 là Hiến pháp của Cộng Hòa Liên Bang Đức.  Chú ý, vì là nước phát xít bại trận trong chiến tranh thế giới II, nên cả 2 miền Tây và Đông nước Đức tuy đã có 2 nhà nước có chủ quyền, nhưng cả 2 nhà nước này vẫn chịu những ràng buộc nhất định trong khuôn khổ Hiệp ước Postdam và một số quyền kiểm soát của 4 bên đồng minh là Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp.  ND chú thích.
[4] “Ai thắng ai?” – giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc.
[5] NEP – Neww Economic Policy.

Nguyễn Trung gửi cho viet-studies ngày 11-6-13