Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

Về tư liệu gốc trong KHXH&NV



Tia Sang - 09:35-28/03/2013 

Trần Trọng Dương

“Bia Đường Lâm”, niên đại ghi trên bia là năm
Quang Thái thứ 3 (1390), nhưng đã được
giám định là khắc vào đầu thế kỷ XIX, bản dịch
hiện đang trưng bày tại Bảo Lịch sử Quốc Gia.
Có một việc vô cùng nguy hiểm đang diễn ra bấy lâu nay trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam, đó là có một bộ phận không nhỏ các nghiên cứu viên không phân biệt được tư liệu gốc (original text) với tư liệu thứ cấp và tài liệu tham khảo; hay nói cách khác, họ không thấy cần thiết phải tiếp cận hoặc sử dụng các tư liệu gốc cho nghiên cứu của mình.

Tại một hội thảo khoa học của các nhà nghiên cứu trẻ ở Viện Khoa học Xã hội (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), anh Quang Hà (công tác tại Trung tâm Hoàng Thành) đề cập việc nghiên cứu lịch sử thời Lý Trần rất khó khăn bởi tư liệu hiện nay còn lại quá ít. Ngay lập tức một vị tiến sĩ tại Viện phản biện rằng: nói như vậy là không xác đáng, bởi tính cho đến thời điểm này đã có không biết bao nhiêu sách vở, công trình nghiên cứu về thời đại Lý Trần được xuất bản. Nghe lời giải thích ấy, chúng tôi giật mình hiểu ra rằng có một việc vô cùng nguy hiểm đang diễn ra bấy lâu nay trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam. Đó là có một bộ phận không nhỏ các nghiên cứu viên không phân biệt được tư liệu gốc (original text) với tư liệu thứ cấp và tài liệu tham khảo; hay nói cách khác, họ không thấy cần thiết phải tiếp cận hoặc sử dụng các tư liệu gốc cho nghiên cứu của mình. Có thể kiểm chứng thực trạng đó qua không ít bài viết được gọi là nghiên cứu đăng trên các tạp chí nhưng hóa ra chỉ là sản phẩm của việc người này trích dẫn lại người nọ. Đọc những bài viết ấy, người ta không thấy tư liệu mới, kết luận mới, nhận thức mới, mà chỉ thấy những lời văn mới được biên tập lại từ những bài văn cũ.

Tư liệu gốc là loại tư liệu được biên soạn, và định bản ngay trong chính thời đại đó, do chính chủ thể văn hóa, chủ thể lịch sử đó tạo tác. Ví dụ, những tư liệu gốc về thời đại Lý Trần phải là những tư liệu được định bản ngay trong chính thời đại Lý Trần. Và như chúng ta biết, không một cuốn sách nào được chép, in vào thời Lý Trần còn lại cho đến ngày nay! Bởi trải qua gần ngàn năm lịch sử, trải qua bao cuộc chiến tranh, thiên tai, nhân họa, các tư liệu văn hiến đó bị thất tán hết cả. Thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn từng thốt lên, sách vở xưa có mười mà nay không còn đến một.

Dĩ nhiên, sách vở (thường được định bản bằng giấy) không phải là loại hình văn bản duy nhất trong hệ thống tư liệu để nghiên cứu về xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó, các tư liệu văn hiến còn được định bản trên các vật liệu khác như đá, gỗ, đồng, vàng, sứ, đất nung…, những vật liệu có tính bền vững cao hơn, khả dĩ vượt qua thử thách của thời tiết khắc nghiệt trong quãng ngàn năm. Kiểm lại các tư liệu gốc như vậy của thời đại Lý Trần còn lại cho đến nay phần lớn là các văn bia (quãng ba bốn chục văn bia) được khắc lên đá, thường được gọi là “những trang sử đá” của dân tộc. Văn bia Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (được Thượng thư bộ Hình Nguyễn Công Bật soạn, và được một vị Thượng thư khác viết chữ và khắc vào đời vua Lý Nhân Tông) ở chùa Long Đọi, Hà Nam, là một tư liệu như vậy. Được soạn và khắc với niên đại xác tín tuyệt đối, là vào năm 1121, đây là sử liệu gốc duy nhất còn lại do chính vua Lý Nhân Tông cho soạn. Văn bia này cũng là một tuyệt phẩm nghệ thuật ở các lĩnh vực: văn chương, điêu khắc cổ và thư pháp cổ điển.

Loại tư liệu gốc thứ hai là loại tư liệu có khả năng được biên soạn vào thời đại đó, nhưng hiện chỉ còn văn bản được chép - in lại vào thời đại sau. Điển hình cho loại này là các sách Khóa hư lục của vua Trần Thái Tông, Lĩnh Nam trích quái, Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh… Tức là những sách được sáng tác vào đời Trần, nhưng hiện còn lại phần lớn là văn bản từ thế kỷ XVII trở về sau. Những văn bản đó không ai dám chắc đã mang đúng những thông tin vào thời Trần, mà có khả năng trong mấy trăm năm lưu truyền, sao đi chép lại, văn bản đã được bổ sung/thêm bớt nhiều lần, khiến cho chúng ta không thể nào biết được diện mạo của văn bản gốc1.

Đến như văn bản Đại Việt sử ký toàn thư - một văn bản quan trọng hàng đầu trong nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam, ghi chép những sự kiện từ sơ sử đến nhà Lê, cũng chỉ là những tập hợp qua nhiều đời và bản in hiện còn được khắc in vào cuối thế kỷ XVII. Từ những ngổn ngang tư liệu như thế, người ta đã cho tiến hành những bản dịch sang tiếng Việt hiện đại. Nhiều người chỉ biết trích dẫn lại những bản dịch của những tư liệu chưa được kiểm định. Không mấy ai quan tâm và biết tư liệu gốc vốn được ghi chép như thế nào? Ghi chép ấy có gì chưa chuẩn xác? Bản dịch của những tư liệu ấy khả tín đến đâu? Các tạp chí chuyên ngành cũng không có quy định nào cụ thể liên quan đến việc trích dẫn tư liệu gốc và tài liệu tham khảo. Trong khi đó, ở nước ngoài những quy định như vậy là bắt buộc và là điều đương nhiên ai cũng biết2.

Nhiều người không thể tưởng tượng có những chuyện tày trời trong kho thư tịch cổ. Này là Gia huấn ca của đại danh hào Nguyễn Trãi, Binh thư yếu lược của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Cưu Đài thi tập của Nguyễn Húc, “tấm bia Đường Lâm” để xác định quê quán của hai vua Phùng Hưng - Ngô Quyền,… lại đều là đồ giả (ngụy thư)3. Tư liệu giả cũng có muôn hình vạn trạng khác nhau, tùy từng động cơ và mục đích. Ví như, vì yêu quý danh nhân, thương xót cổ thư mà người ta sáng tác lại Gia huấn ca, hay Binh thư yếu lược. Có khi chỉ vì tiền, mà người ta chép sách của người này gán vào người khác, như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim biến thành Việt sử diễn âm của Hoàng Cao Khải. Có khi vì muốn kéo dài lịch sử, mà người ta cho làm giả niên đại của một cuốn sách, như thần phả Hùng Vương - chủ yếu là các văn bản của thế kỷ XVIII- XIX, nhưng đã được “khai khống” niên đại lên đến tận đời Lê Hoàn (thế kỷ X) hay Lê Thánh Tông (thế kỷ XV).

Từ tác phong khoa học, những mối hại dần dần chuyển nhịp sang cả đời sống đương đại. Người ta sẵn sàng dựng lên một nhân vật lịch sử nào đó với những mục đích riêng tây khác nhau. Một vị thành hoàng làng vô danh bỗng chốc trở thành thủy tổ của một dòng họ nổi tiếng, mà hậu sinh giờ đây là một doanh nghiệp giàu có. Một tín ngưỡng ở tầm địa phương vốn vay mượn từ truyện truyền kỳ Trung Hoa được “nhân vật hóa - lịch sử hóa” để trở thành một triều đại có thật trong lịch sử và trở thành niềm tự hào của hơn tám mươi triệu con người. Những mảnh ghép của nhiều nhân vật lịch sử khác nhau được nhào nặn để từ đó một danh tướng - anh hùng lịch sử xuất hiện. Người ta dùng cả những con ấn giả để buôn bán niềm tin tâm linh.

Từ năm 1945, khi chữ Hán, chữ Nôm chính thức được/bị thay thế bằng hệ thống chữ cái Latin (chữ Quốc ngữ)4. Những tư liệu gốc đã bị phá hủy không biết bao nhiêu mà kể, bởi quan niệm một thời: chữ viết thể hiện ý thức hệ phong kiến cổ hủ và lạc hậu. Cho đến nay, tình trạng ấy chưa phải đã hết. Một số cơ quan chuyên ngành mặc dù đã cố gắng, song việc sưu tầm, xử lý và vi tính hóa tư liệu ấy đến nay vẫn còn đang dang dở. Khá nhiều tư liệu vẫn còn đang nằm trong dân gian, và ngày ngày bị đe dọa biến mất. Một số lớn các tư liệu khác nằm ở nước ngoài (Mỹ, Pháp, Anh, Hà Lan, Italy, Nhật Bản,…) vẫn chưa có dự án nào đưa về nước để khai thác. Còn quá nhiều việc phải làm cho nghiên cứu cơ bản. Cụ thể ra sao chúng tôi xin được đề cập đến trong một dịp khác.

-------------------------------------------
1 Ví dụ như cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, theo nghiên cứu văn bản học gần đây của một nhà Hán học Nga thì có những căn cứ rõ nét cho thấy cuốn sách này được sử quan nhà Mạc biên tập, thêm bớt, cắn xét với những mục đích khác nhau. [A. L. Fedolin. Những cứ liệu mới về việc chép sử Việt Nam. Lương Tự Cường dịch. NXB Văn hóa Thông tin. Hà Nội. 2011].
2 Gần đây tôi có một người bạn học ở nước ngoài về. Anh rất quyết liệt trong việc đi học chữ Hán cổ, bởi lẽ, một số bài nghiên cứu của anh không được đăng do các cứ liệu, trích dẫn đều lấy từ các bản dịch. Mà bản dịch thì không phải là tư liệu gốc.
Xin xem các bài Hoàng Văn Lâu. Ai viết Gia huấn ca. Tạp chí Hán Nôm. số 01- 1984.
Ngô Đức Thọ. Khảo cứu về Binh thư yếu lược. Tạp chí Hán Nôm, số 01- 1989.
Phạm Văn Ánh. Về Nguyễn Húc và bộ Cưu đài thi tập hiện còn. Nghiên cứu Văn học, số 02 – 2006.
Trần Ngọc Vương, Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương. Đường Lâm là Đường Lâm nào? (Tìm về quê hương Đại Sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu). Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển. Huế. Số 02- 2011.
4 Vũ Thế Khôi. Ai bức tử chữ Hán Nôm? http://vanhoanghean.vn


----------------------------------------------
Xem thêm:


Tia sáng - 03:22-27/03/2013 

DI SẢN HÁN NÔM: Phải nghĩ tới việc sưu tầm bên ngoài biên giới quốc gia

Theo nhà nghiên  cứu Cao Tự Thanh, từ thời Pháp thuộc trở đi thì tài liệu Hán Nôm là hệ thống quan trọng bậc nhất trong di sản văn hóa truyền thống của dân tộc nhưng vì một số lý do, hệ thống này đã bị thất tán quá nhiều, và thực tế đó buộc chúng ta phải nghĩ tới việc sưu tầm di sản bên ngoài biên giới quốc gia.

PV: Là một người hoạt động lâu năm trong lĩnh vực cổ học, ông có thể cho biết tài liệu Hán Nôm giữ vai trò như thế nào trong lịch sử văn hóa Việt Nam?

Ông Cao Tự Thanh: Dưới thời phong kiến thì đó là bộ phận gắn liền với những thành tựu tổ chức xã hội, phát triển văn hóa của dân tộc Việt Nam mà đại diện là tầng lớp trí thức. Còn từ thời Pháp thuộc trở đi thì đó là hệ thống quan trọng bậc nhất trong di sản văn hóa truyền thống của dân tộc. Đáng tiếc là vì một số lý do hệ thống này đã bị thất tán quá nhiều, nhưng muốn hiện đại hóa đất nước thì phải kiểm điểm lại tất cả những nguồn lực truyền thống, nhìn nhận lại toàn bộ những kinh nghiệm quá khứ, và như vậy không thể không quan tâm tới việc sưu tầm, bảo quản và khai thác các tài liệu Hán Nôm.

Các loại hình di sản thư tịch có mức độ phong phú như thế nào?
Chữ viết là công cụ thông tin và lưu trữ, thì tự nhiên các loại hình tài liệu Hán Nôm phải tương ứng với hoạt động thông tin và lưu trữ của các hệ thống sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, giao tiếp xã hội, quản lý xã hội vân vân trong quốc gia Việt Nam thời phong kiến. Chính quyền ban bố mệnh lệnh, tổ chức bộ máy, kêu gọi nhân dân, hoạt động đối ngoại, trí thức phát biểu chính kiến, sáng tác thơ văn, trước tác công trình, biên soạn giáo trình, nhân dân sinh hoạt từ ma chay cưới gả tới gia phả di chúc, xã hội giao dịch từ điếu tang chúc thọ tới mua bán cầm cố, tôn giáo tuyên truyền giáo lý, quảng bá kinh sách, chuyện gì mà không cần chữ viết, không có tài liệu. Còn nói về cái vỏ vật chất của văn bản thì ngoài chất liệu phổ biến là giấy, tài liệu Hán Nôm Việt Nam còn có các văn bản đồng, đá, tre, gỗ, vải vóc, gốm sứ, có thua kém quốc gia dùng chữ Hán nào đâu.

Ông từng nhắc đến việc thất tán tài liệu Hán Nôm trong thế kỷ XX. Sự thất tán này cụ thể ra sao?
Cũng như các thế kỷ trước, việc thất tán tài liệu Hán Nôm trong thế kỷ XX có ba nguyên nhân chủ yếu, tức một là thiên tai, hai là chiến tranh, ba là sự thiển cận và vô trách nhiệm của con người. Thiên tai là chuyện không có ai muốn nhưng cũng không biết làm sao, ở đây không bàn.
Chiến tranh thì suốt sáu thế kỷ, từ XV đến XX thế kỷ nào Việt Nam cũng có, riêng trong thế kỷ XX là 30 năm. Thế kỷ XV, ngoài số bị phá hủy vì binh lửa còn có những tài liệu thư tịch bị nhà Minh đưa về Kim Lăng; thế kỷ XIX và XX cũng có một số bị đưa ra nước ngoài với những cách thức trái với ý muốn của người Việt Nam ngoài những trường hợp giao lưu. Nói thêm thì thực tế này buộc người ta phải nghĩ tới việc sưu tầm tư liệu Hán Nôm bên ngoài biên giới quốc gia.
Nhưng thế kỷ XX khác hẳn với các thế kỷ trước ở chỗ sau thiên tai và chiến tranh kho tàng tài liệu Hán Nôm cơ bản không được tái tạo vì người Việt Nam đã chuyển qua dùng một loại chữ viết khác. Đây là tiền đề lịch sử – xã hội cho sự vượt lên của nguyên nhân thứ ba, đặc biệt là từ 1975 đến nay. Khi mà tuyệt đại đa số trí thức và nhân dân không có khả năng đọc hiểu văn bản Hán Nôm, tức không có kiến thức cụ thể thì rất khó mà nói những chuyện như nhận thức hay ý thức về di sản Hán Nôm cho tới nơi tới chốn. Bởi vì cái di sản ấy là một cấu trúc phức hợp mang tính liên thông chức năng rất cao, ngoài phần tài liệu – văn bản vật thể còn có phần phi vật thể, ví dụ ngôn ngữ. Việc sử dụng mảng từ Việt Hán bị xuống cấp trong nhiều năm nay chính là một bằng chứng đấy.
Đến nay (thế kỷ XXI), việc thất tán tài liệu có còn diễn ra hay không, nếu có nó diễn ra dưới hình thức nào?
Nhiều hình thức và mức độ, mà chủ yếu là do sự thiển cận và vô trách nhiệm của con người. Đã có ai đó vớ được một bản sách đồng thời Nguyễn bán ra nước ngoài, đã có ai đó trùng tu đền miếu chùa quán bỏ hết câu đối biển ngạch vốn có để thay bằng câu đối biển ngạch mới, đã có ai đó dùng kỹ thuật vi tính “phục chế” kiểu ngụy tạo một bản Kiều Nôm. Có khi tài liệu Hán Nôm cũng được sưu tầm bảo quản, nhưng vì chủ thể sưu tầm bảo quản coi là “kỳ hóa khả cư” (món hàng lạ có thể bán) nên chúng không phát huy được chức năng xã hội có thể có, đó cũng là một hình thức mất mát. Trong tất cả các trường hợp nói trên, sự xâm hại hay chuyển dịch các tài liệu vật thể đều ít nhiều kéo theo sự mất mát các giá trị phi vật thể, cho nên giống như trong một phản ứng dây chuyền, đã xuất hiện tài liệu giả, văn bản giả, hiện vật giả, hay tệ hơn là nhiều giá trị truyền thống bị đánh tráo chức năng.

Ông có kiến nghị hoặc đề xuất nào về việc sưu tầm, bảo quản và khai thác tài liệu Hán Nôm không?
Nhà nước đã tổ chức nhiều hệ thống để làm những việc đó từ Trung ương tới địa phương, ai mà cải tổ được toàn bộ quy chế hoạt động, thay đổi nổi toàn bộ cung cách tác nghiệp của hệ thống lưu trữ và nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam, có đề xuất kiến nghị gì gì cũng vô ích. Chỉ mong những cá nhân và tổ chức trong các hệ thống ấy làm đúng những điều chính họ đề ra để nhận kinh phí nhà nước thôi thì kể như di sản Hán Nôm ở Việt Nam hiện nay cũng đã gặp may rồi.

DTT thực hiện

LÀNG và HIẾN PHÁP




Tia Sáng --- 04:07-29/03/2013 
Làng không có chỗ trong Hiến pháp



Làng là một thành tố quan trọng của dân chủ, vì không có dân chủ ở cơ sở thì sẽ không có dân chủ ở vĩ mô. Bởi vậy, hiến pháp các nước văn minh đều trực tiếp hay gián tiếp, minh thị hay mặc thị bảo đảm sự tồn tại của làng. Thế nhưng tìm kiếm những điều tương tự trong hiến pháp hiện hành của Việt Nam cũng như trong Dự thảo sửa Hiến pháp 1992, chúng ta không thấy bóng dáng làng, dù là một gợi ý nhỏ.
1. Làng và sở hữu làng trong chiều dài lịch sử

Làng với hình tượng cây đa – bến nước – sân đình – lũy tre bao quanh trở thành không gian dân chủ tự quản của người dân trước mọi tham vọng tập quyền, bất kể đó là phong kiến phương bắc hay phong kiến bản địa.

Quyền tự quản của làng mạnh đến mức, trong quá khứ quan triều đình cũng phải thốt lên “phép vua thua lệ làng” theo đúng nghĩa đen của nó.

Để có được những đặc tính nói trên, quyền sở hữu của làng là một khía cạnh rất quan trọng để giúp làng trường tồn, bên cạnh các khía cạnh văn hóa, xã hội học... Vì muốn cố kết văn hóa làng thì phải có không gian sinh hoạt văn hóa làng: phải có đình làng; muốn có đình làng thì phải có đất xây đình làng; muốn có đất xây đình làng và xác lập quyền sở hữu đối với làng thì làng phải có quyền sở hữu đối với mảnh đất mà trên đó đình làng được xây dựng1. Khía cạnh này luôn được nhà cầm quyền tôn trọng trong suốt chiều dài lịch sử người Việt, ngay cả thời kỳ bắc thuộc dã man.

Trải qua hơn hai nghìn năm bất khuất, ngày nay làng Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức sống còn chưa hề trải trong lịch sử: toàn cầu hóa và sở hữu đất đai. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ tập trung phân tích thách thức thứ hai.

2. Phận làng trước chính sách đất đai mới

Song song với việc đẩy mạnh mặt trận “phản đế, phản phong”2 về phương diện chính trị, kinh tế, cuộc cách mạng văn hóa (bài trừ văn hóa phong kiến, thuộc địa) nhằm hướng tới nền văn hóa mới cũng được tiến hành. Trong cuộc cách mạng này, làng trải qua những bước chuyển ngàn năm và mang phận mới.

Thứ nhất, triết học nền tảng cho giai đoạn mới chủ trương vô thần vô thánh, dẫn tới việc không khuyến khích duy trì các không gian sinh hoạt tâm linh, đặc biệt đình chùa chiền và các không gian thể hiện, lưu giữ văn hóa phong kiến, kể cả thư viện3 bị những người cực tả đập phá trong giai đoạn đầu.

Thứ hai, song song với nỗ lực thiết lập phương thức sản xuất mới, lấy hợp tác xã và doanh nghiệp nhà nước làm trọng tâm, về mặt thiết chế, hợp tác xã cố gắng thay vai trò của làng; lý trưởng, chánh tổng bị bắt; các thiết chế hội đồng tộc biểu, thủ chỉ làng bị xóa. Trụ sở hợp tác xã, sân kho hợp tác xã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa mới. Làng từ đây không còn là một đơn vị hành chính.

Thứ ba, quyền sở hữu của làng từng bước bị xóa sổ. Thoạt tiên, những người dân vô đạo, bất chấp thần thánh xâm canh, tăng gia sản xuất trên vườn chùa, sân đình. Sau đó, phần cơ sở vật chất còn sót lại của đình chùa được thay đổi công năng; có nơi thành kho của hợp tác xã. Bước tiếp theo, xóa bỏ quyền sở hữu đất đai của làng. Sau cùng, Luật đất đai, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật khiếu nại, Luật tố tụng hành chính biến làng thành một thực thể vô năng về mặt pháp luật: Làng không những mất quyền sở hữu mà còn không thể đứng tên trong bất kỳ loại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nào; làng không phải là cá nhân, không phải là pháp nhân, chẳng phải là tổ chức theo nghĩa của các quy định pháp luật hiện hành; làng không thể đứng đơn khởi kiện trước bất kỳ tòa án hay thủ tục khiếu nại nào.

Ngày nay, đình chùa làng nào nổi danh sẽ được nhà nước xếp hạng di tích văn hóa đồng thời quyền quản lý cũng rời khỏi tay làng4. Đình chùa nào chưa được xếp hạng, tiếp tục được dân làng hương khói, tôn tạo, thì cũng chỉ ăn nhờ ở đậu trên đất thuộc sở hữu của chủ thể khác: thuộc sở hữu toàn dân. Căn hộ chung cư còn có sổ hồng gắn liền với quyền sử dụng đất; đình làng chưa được xếp hạng thì chẳng có sổ hồng, cũng không sổ đỏ. Làng vô danh trong Luật đất đai 2003.

Ấy vậy, dân làng quen miệng vẫn nói “đình làng ta”, mà đâu biết rằng nền đất dưới đó đâu còn thuộc sở hữu của làng; họ đang nói sai chủ trương, pháp luật của nhà nước.
Chỉ bằng một quyết định hành chính, thì ông chủ sở hữu thông qua người đại diện là nhà nước, có thể thu hồi đất, mà không phải đền bù cho bất kỳ ai. Đình làng sẽ đi về đâu trong bối cảnh đô thị hóa, tấc đất tấc vàng? Làng mất quyền sở hữu đất ngàn năm – cội nguồn văn hóa Việt sẽ nương chốn nào?

3. Làng trong hiến pháp

Làng là một thành tố quan trọng của dân chủ, vì không có dân chủ ở cơ sở thì sẽ không có dân chủ ở vĩ mô. Bởi vậy, hiến pháp các nước văn minh đều trực tiếp hay gián tiếp, minh thị hay mặc thị bảo đảm sự tồn tại của làng.

Đa số hiến pháp bảo đảm gián tiếp cho sự tồn tại của làng thông qua việc ghi nhận chế độ đa sở hữu về đất đai, quyền lập hội của công dân, nguyên tắc tự quản địa phương. 

Một số ít, mà điển hình là Hiến pháp CHLB Đức 1949 đã quy định một cách trực tiếp rõ ràng địa vị pháp lý của làng xã. Điều 28 Khoản 3 GG đã nhân cách hóa làng xã (Gemeide) và ghi nhận các bảo đảm tương tự như nhân quyền (Grundrecht) đối với làng xã.

Việc nhắc tên làng trong hiến pháp sẽ là vô nghĩa, nếu làng không có các bảo đảm cần thiết về tài chính, sở hữu, tự quản, dân chủ trên thực tế. Bởi vậy, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 28 Hiến pháp CHLB Đức 1949 quy định trực tiếp các bảo đảm này:

(1)    ...Ở các làng xã (Gemeide) phải có các cơ quan dân cử, cơ quan này hình thành từ các cuộc bầu cử phổ thông, bình đẳng, tự do, trực tiếp và kín... ở các làng xã các Hội nghị dân cư (trực tiếp) có thể thay thế vị trí cho các cơ quan dân cử. 

(2)    Các làng xã phải được bảo đảm quyền tự điều hành và chịu trách nhiệm trong khuôn khổ các đạo luật về các quan hệ nội bộ. Các liên minh làng cũng được quyền tự quản trong lĩnh vực luật định phù hợp với phạm vi ấn định bởi các đạo luật. Bảo đảm quyền tự quản bao gồm các cơ sở cho khả năng tự chịu trách nhiệm về tài chính; các cơ sở này bao gồm (nhưng không hạn chế) nguồn thu thuế liên quan các nguồn lực kinh tế được ấn định bởi làng xã5.

Đi tìm kiếm những điều tương tự trong hiến pháp hiện hành của Việt Nam cũng như trong Dự thảo sửa Hiến pháp 1992, chúng ta thấy lần lượt các thực thể pháp lý: nhân dân, nhà nước, Đảng, Mặt trận tổ quốc, Công đoàn, Đoàn thanh niên, dân tộc, công dân, con người... nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng làng, dù là một gợi ý nhỏ. Bộ máy nhà nước chỉ bao gồm bốn cấp: Trung ương - tỉnh - huyện – xã. Hiến phápkhông coi thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc là một cấp chính quyền, cũng không có dòng nào nói về tự quản của làng xã, đồng thời phủ nhận chế độ đa sở hữu về đất đai.

Quan trọng hơn, làng là một thực thể không có năng lực pháp lý, đặc biệt không có quyền sở hữu; hay nói cách khác cơ sở pháp lý của làng bị triệt hạ ngay từ trong hiến pháp. Đây chính là điểm khác nhau giữa Hiến pháp 1946 và các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992. Tuy không nhắc đến làng, nhưng Hiến pháp 1946 vẫn tạo cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của làng tại Điều 10 và Điều 12. Quyền tự do lập hội rộng rãi và thực chất6 tại Điều 10 Hiến pháp 1946 cho phép công dân có thể liên kết với nhau dưới nhiều hình thức, trong đó có hình thức cộng đồng cư trú - làng. Quyền tự do tư hữu, bao gồm tư hữu đất đai của công dân tại Điều 12, cho phép công dân tạo lập quyền sở hữu đất đai cho làng theo hình thức sở hữu hợp chung hợp nhất không thể phân chia.

Làng như đứa trẻ bị bỏ rơi, không có giấy khai sinh. Nhưng không có giấy khai sinh không có nghĩa không tồn tại; làng vẫn tồn tại ngạo nghễ bất chấp hiến pháp nói gì. Sự tồn tại thực tế làm nhà nước phát sinh nhu cầu thiết lập kênh liên lạc với làng. Sau khi mô hình hợp tác xã nông nghiệp sụp đổ ở nông thôn, các chức danh trưởng thôn, trưởng bản được tái thiết lập7. Để nuôi sống sợi dây liên lạc này, nhà nước phải có chế độ phụ cấp tiền lương cho trưởng thôn, trưởng bản. Ngoài ra, song song với chủ trương xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc sau thời kỳ Đổi mới, nhà nước cũng đặt ra một số danh hiệu như làng văn hóa, khu phố văn hóa... Như vậy, bởi sự tồn tại thực tế của làng cùng với nhu cầu quản lý của nhà nước, làng không biến mất hoàn toàn trong hệ thống pháp luật, mà được đề cập một cách gián tiếp trong các văn bản dưới luật liên quan chế độ phụ cấp các chức danh trưởng thôn, trưởng bản, bí thư thôn...

Việc đánh giá thấp vai trò của làng, dẫn tới nhà nước lấy cấp xã thay cho cấp làng để củng cố dân chủ cơ sở; việc dành cho làng địa vị pháp lý mờ nhạt, dẫn tới nhà nước gặp không ít khó khăn trong việc duy trì liên lạc ổn định với làng, dẫn tới sinh hoạt cộng đồng của nông dân gặp khó khăn khi họ muốn tự tổ chức.

4. Sở hữu làng trong thực tế - những giá trị cần khuyến khích

Pháp luật đất đai hiện hành không thừa nhận quyền sở hữu đất, quyền sử dụng đất của làng; Bộ luật dân sự không thừa nhận quyền sở hữu của làng nhưng chỉ với các văn bản quy phạm pháp luật đó, không thể nào đủ sức mạnh xóa sạch sở hữu làng. Bằng sức mạnh của lòng dân, sự tự nguyện, sở hữu làng vẫn tồn tại trên thực tế (sở hữu de facto)8.

Tuy nhiên quyền sở hữu de facto của làng, hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện, mà không đủ mạnh để giải quyết những bất đồng phát sinh, củng cố khối đoàn kết của làng. Nếu có tranh chấp sở hữu liên quan cồng chiêng của làng, số tiền đóng đậu để bê tông hóa đường làng... lập tức làng trở về thân phận câm lặng trước mọi thủ tục tố tụng pháp lý của nhà nước. Sở hữu và duy trì tập tục làng tìm kiếm sự bảo vệ từ các định chế phi quan phương, không trông chờ từ nhà nước.

Kết luận: 

1. Sở hữu đất đai của làng và của các loại hình cộng đồng nói chung, có nhiều nét tương đồng với sở hữu tập thể, không có gì xung đột với “sở hữu xã hội chủ nghĩa”.

2. Làng – nơi gìn giữ văn hóa Việt và là một thiết chế có sức sống mãnh liệt xuyên suốt hơn hai nghìn năm. Dù mất đất, mất chỗ đứng trong hiến pháp, làng luôn có một vị trí không thể thay thế trong lòng người Việt. Pháp luật của nhà nước nên thuận lòng dân, ghi nhận sở hữu của làng, trong đó có sở hữu đất đai của làng. Ghi nhận sở hữu đất đai của làng không có gì làm mất màu sắc xã hội chủ nghĩa. Chúng ta không nên lựa chọn cách đối đầu, xa lánh với làng, mà phải dựa vào làng.

3. Các cấp hành chính như xã, tổng, huyện, phủ, tỉnh, lộ, bộ, kỳ là các thực thể nhân tạo; việc thành lập hay giải thể tùy thuộc vào nhu cầu quản lý của nhà nước từng thời kỳ. Nhưng làng là một thực thể tồn tại ổn định suốt hàng ngàn năm, bởi vì nó là đơn vị quần cư tự nhiên, từ đặc tính sinh học sống theo bầy đàn của loài người. Làng không phải là tự nhiên nhân (thể nhân/con người), nhưng sự hình thành tự nhiên song song với loài người và đặc tính ổn định của nó, nên làng cần được đối xử như thể là một con người. Con người có nhân quyền bất khả xâm phạm, thì làng có quyền tồn tại, quyền được có giấy khai sinh, quyền tự quản, tự duy trì trật tự nội bộ của mình, và trước hết là quyền sở hữu.

---

* Khoa Luật kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM

  Chú giải:

1 Bên cạnh đình làng thì chùa cũng có đất riêng, gọi là đất tam bảo. Xem Hồng Đức Thiện Chính Thư, Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), Lệ về ruộng đất, Chương điền sản Điều 5: “Lấn chiếm ruộng tam bảo thì cho trình báo và phạt đánh kẻ đó 80 trượng, xử tội đồ”, dẫn theo Nguyễn Ngọc Nhuận – Lê Tuấn Anh – Trần Thị Kim Anh (2006), Một số văn bản điển chế và pháp luật Việt Nam, Tập I, NXB Khoa học Xã hội, tr. 441. 

2  phản đế quốc, phản phong kiến

3 Bản thân tác giả đã chứng kiến tàn tích bị đốt cháy của thư viện sách hơn một vạn cuốn khắc trên bản gỗ lim của gia đình tác giả Hoa Tiên Truyện – Nhà thơ Nguyễn Huy Tự ở làng Trường Lưu. 

4 Nhà nước đã can thiệp về thời gian, nghi lễ, số lượng chất lượng phát ấn đền Trần. Xem http://dantri.com.vn/su-kien/cong-bo-thoi-diem-phat-an-den-tran-nam-nham-thin-557723.htm

5 Thường các làng xã có quyền quyết định thuế suất và thu thuế nhà, bất động sản. 

6 Trong giai đoạn đầu.

7 Khi HTX còn tồn tại, kênh liên lạc với làng được thiết lập qua các đội sản xuất.


 Ở làng của tác giả vẫn còn quỹ ruộng khuyến học của làng (không nằm trong sổ sách của nhà nước). Ai thi đỗ đại học, làng cho bố mẹ mượn quỹ ruộng này cày cấy, miễn mọi loại tiền đóng đậu, coi như là một hình thức làng hỗ trợ phụ huynh nuôi con em đi học đại học.

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

Cô robot xinh đẹp Aiko ở Canada



Lê Trung và Aiko. nh: Dvice.





Đc báo thy bài này đáng chú ý, nói ti s c gng vươn lên ca người Vit nước ngoài và ý chí mun sng mt cuc đi giá tr, xin chép li đ mai mt đc li k hơn.
 Lê Trung, mt k sư người Canada gc Vit, sáng chế ra cô robot xinh đp và luôn vui v làm vic nhà sut 24/24h.

Robot có tên Aiko khong hơn 20 tui, có mt cơ th hoàn ho, gương mt xinh đp và mái tóc nâu sáng. Cô luôn vui v dn dp nhà ca và phc v Lê. K sư 33 tui sng ti thành ph Ontario ca Canada này đã tn 2 năm và 20.000 USD đ sáng chế ra cô gái trong mơ ca mình.
Ban đu anh đnh chế to mt loi robot giúp vic cho người già. Tuy nhiên, d án này sau đó đi chch hướng. Chuyn vi Aiko cũng ging như khi khoa hc đi mt vi sc đp vy“, anh cho biết. Aiko bt đu mt ngày bng vic đc báo cho Lê. H thường lái xe ra vùng nông thôn và Aiko luôn tr tài v phương hướng.
Lê cho biết mi quan h ca anh và Aiko vn chưa chuyn ti phòng ng, song mt vài mo có th biến cô thành mt đi tác tình dc. Aiko có th phn ng mi khi b cù hay đng chm. Cô có th nhn ra các gương mt và nói được 13.000 câu.
Lê đang mun mt nhà tài tr giúp anh vượt qua thách thc ln nht ca nhà sn xut robot là làm cho Aiko có th đi đng như con người. Mt khi Aiko tr nên hoàn ho, Lê mun bán nhng mu tương t đ giúp vic vt trong gia đình. Aiko không cn đi ngh, ăn ung hay ng và s làm vic 24 gi mi ngày. Cô y là người ph n hoàn ho“, Lê nói.
Robot Aiko cũng khiến nhiu người quan tâm. Ph n thường tìm cách nói chuyn vi cô y. Đàn ông thì mun đng chm và mi khi h đi quá đà, cô y s tát ngay“, Lê nói.

Mai Trang (theo Sun, Daily News)”