Tia Sang - 09:35-28/03/2013
Trần Trọng Dương |
“Bia Đường Lâm”, niên đại ghi trên bia là năm
Quang Thái thứ 3 (1390), nhưng đã được
giám định là khắc vào đầu thế kỷ XIX, bản dịch
hiện đang trưng bày tại Bảo Lịch sử Quốc Gia.
Có một việc vô cùng nguy hiểm đang diễn ra bấy lâu nay trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam, đó là có một bộ phận không nhỏ các nghiên cứu viên không phân biệt được tư liệu gốc (original text) với tư liệu thứ cấp và tài liệu tham khảo; hay nói cách khác, họ không thấy cần thiết phải tiếp cận hoặc sử dụng các tư liệu gốc cho nghiên cứu của mình.
Tại một hội thảo khoa học của các nhà nghiên cứu trẻ ở Viện Khoa học Xã hội (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), anh Quang Hà (công tác tại Trung tâm Hoàng Thành) đề cập việc nghiên cứu lịch sử thời Lý Trần rất khó khăn bởi tư liệu hiện nay còn lại quá ít. Ngay lập tức một vị tiến sĩ tại Viện phản biện rằng: nói như vậy là không xác đáng, bởi tính cho đến thời điểm này đã có không biết bao nhiêu sách vở, công trình nghiên cứu về thời đại Lý Trần được xuất bản. Nghe lời giải thích ấy, chúng tôi giật mình hiểu ra rằng có một việc vô cùng nguy hiểm đang diễn ra bấy lâu nay trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam. Đó là có một bộ phận không nhỏ các nghiên cứu viên không phân biệt được tư liệu gốc (original text) với tư liệu thứ cấp và tài liệu tham khảo; hay nói cách khác, họ không thấy cần thiết phải tiếp cận hoặc sử dụng các tư liệu gốc cho nghiên cứu của mình. Có thể kiểm chứng thực trạng đó qua không ít bài viết được gọi là nghiên cứu đăng trên các tạp chí nhưng hóa ra chỉ là sản phẩm của việc người này trích dẫn lại người nọ. Đọc những bài viết ấy, người ta không thấy tư liệu mới, kết luận mới, nhận thức mới, mà chỉ thấy những lời văn mới được biên tập lại từ những bài văn cũ.
Tư liệu gốc là loại tư liệu được biên soạn, và định bản ngay trong chính thời đại đó, do chính chủ thể văn hóa, chủ thể lịch sử đó tạo tác. Ví dụ, những tư liệu gốc về thời đại Lý Trần phải là những tư liệu được định bản ngay trong chính thời đại Lý Trần. Và như chúng ta biết, không một cuốn sách nào được chép, in vào thời Lý Trần còn lại cho đến ngày nay! Bởi trải qua gần ngàn năm lịch sử, trải qua bao cuộc chiến tranh, thiên tai, nhân họa, các tư liệu văn hiến đó bị thất tán hết cả. Thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn từng thốt lên, sách vở xưa có mười mà nay không còn đến một.
Dĩ nhiên, sách vở (thường được định bản bằng giấy) không phải là loại hình văn bản duy nhất trong hệ thống tư liệu để nghiên cứu về xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó, các tư liệu văn hiến còn được định bản trên các vật liệu khác như đá, gỗ, đồng, vàng, sứ, đất nung…, những vật liệu có tính bền vững cao hơn, khả dĩ vượt qua thử thách của thời tiết khắc nghiệt trong quãng ngàn năm. Kiểm lại các tư liệu gốc như vậy của thời đại Lý Trần còn lại cho đến nay phần lớn là các văn bia (quãng ba bốn chục văn bia) được khắc lên đá, thường được gọi là “những trang sử đá” của dân tộc. Văn bia Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (được Thượng thư bộ Hình Nguyễn Công Bật soạn, và được một vị Thượng thư khác viết chữ và khắc vào đời vua Lý Nhân Tông) ở chùa Long Đọi, Hà Nam, là một tư liệu như vậy. Được soạn và khắc với niên đại xác tín tuyệt đối, là vào năm 1121, đây là sử liệu gốc duy nhất còn lại do chính vua Lý Nhân Tông cho soạn. Văn bia này cũng là một tuyệt phẩm nghệ thuật ở các lĩnh vực: văn chương, điêu khắc cổ và thư pháp cổ điển.
Loại tư liệu gốc thứ hai là loại tư liệu có khả năng được biên soạn vào thời đại đó, nhưng hiện chỉ còn văn bản được chép - in lại vào thời đại sau. Điển hình cho loại này là các sách Khóa hư lục của vua Trần Thái Tông, Lĩnh Nam trích quái, Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh… Tức là những sách được sáng tác vào đời Trần, nhưng hiện còn lại phần lớn là văn bản từ thế kỷ XVII trở về sau. Những văn bản đó không ai dám chắc đã mang đúng những thông tin vào thời Trần, mà có khả năng trong mấy trăm năm lưu truyền, sao đi chép lại, văn bản đã được bổ sung/thêm bớt nhiều lần, khiến cho chúng ta không thể nào biết được diện mạo của văn bản gốc1.
Đến như văn bản Đại Việt sử ký toàn thư - một văn bản quan trọng hàng đầu trong nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam, ghi chép những sự kiện từ sơ sử đến nhà Lê, cũng chỉ là những tập hợp qua nhiều đời và bản in hiện còn được khắc in vào cuối thế kỷ XVII. Từ những ngổn ngang tư liệu như thế, người ta đã cho tiến hành những bản dịch sang tiếng Việt hiện đại. Nhiều người chỉ biết trích dẫn lại những bản dịch của những tư liệu chưa được kiểm định. Không mấy ai quan tâm và biết tư liệu gốc vốn được ghi chép như thế nào? Ghi chép ấy có gì chưa chuẩn xác? Bản dịch của những tư liệu ấy khả tín đến đâu? Các tạp chí chuyên ngành cũng không có quy định nào cụ thể liên quan đến việc trích dẫn tư liệu gốc và tài liệu tham khảo. Trong khi đó, ở nước ngoài những quy định như vậy là bắt buộc và là điều đương nhiên ai cũng biết2.
Nhiều người không thể tưởng tượng có những chuyện tày trời trong kho thư tịch cổ. Này là Gia huấn ca của đại danh hào Nguyễn Trãi, Binh thư yếu lược của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Cưu Đài thi tập của Nguyễn Húc, “tấm bia Đường Lâm” để xác định quê quán của hai vua Phùng Hưng - Ngô Quyền,… lại đều là đồ giả (ngụy thư)3. Tư liệu giả cũng có muôn hình vạn trạng khác nhau, tùy từng động cơ và mục đích. Ví như, vì yêu quý danh nhân, thương xót cổ thư mà người ta sáng tác lại Gia huấn ca, hay Binh thư yếu lược. Có khi chỉ vì tiền, mà người ta chép sách của người này gán vào người khác, như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim biến thành Việt sử diễn âm của Hoàng Cao Khải. Có khi vì muốn kéo dài lịch sử, mà người ta cho làm giả niên đại của một cuốn sách, như thần phả Hùng Vương - chủ yếu là các văn bản của thế kỷ XVIII- XIX, nhưng đã được “khai khống” niên đại lên đến tận đời Lê Hoàn (thế kỷ X) hay Lê Thánh Tông (thế kỷ XV).
Từ tác phong khoa học, những mối hại dần dần chuyển nhịp sang cả đời sống đương đại. Người ta sẵn sàng dựng lên một nhân vật lịch sử nào đó với những mục đích riêng tây khác nhau. Một vị thành hoàng làng vô danh bỗng chốc trở thành thủy tổ của một dòng họ nổi tiếng, mà hậu sinh giờ đây là một doanh nghiệp giàu có. Một tín ngưỡng ở tầm địa phương vốn vay mượn từ truyện truyền kỳ Trung Hoa được “nhân vật hóa - lịch sử hóa” để trở thành một triều đại có thật trong lịch sử và trở thành niềm tự hào của hơn tám mươi triệu con người. Những mảnh ghép của nhiều nhân vật lịch sử khác nhau được nhào nặn để từ đó một danh tướng - anh hùng lịch sử xuất hiện. Người ta dùng cả những con ấn giả để buôn bán niềm tin tâm linh.
Từ năm 1945, khi chữ Hán, chữ Nôm chính thức được/bị thay thế bằng hệ thống chữ cái Latin (chữ Quốc ngữ)4. Những tư liệu gốc đã bị phá hủy không biết bao nhiêu mà kể, bởi quan niệm một thời: chữ viết thể hiện ý thức hệ phong kiến cổ hủ và lạc hậu. Cho đến nay, tình trạng ấy chưa phải đã hết. Một số cơ quan chuyên ngành mặc dù đã cố gắng, song việc sưu tầm, xử lý và vi tính hóa tư liệu ấy đến nay vẫn còn đang dang dở. Khá nhiều tư liệu vẫn còn đang nằm trong dân gian, và ngày ngày bị đe dọa biến mất. Một số lớn các tư liệu khác nằm ở nước ngoài (Mỹ, Pháp, Anh, Hà Lan, Italy, Nhật Bản,…) vẫn chưa có dự án nào đưa về nước để khai thác. Còn quá nhiều việc phải làm cho nghiên cứu cơ bản. Cụ thể ra sao chúng tôi xin được đề cập đến trong một dịp khác.
-------------------------------------------
1 Ví dụ như cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, theo nghiên cứu văn bản học gần đây của một nhà Hán học Nga thì có những căn cứ rõ nét cho thấy cuốn sách này được sử quan nhà Mạc biên tập, thêm bớt, cắn xét với những mục đích khác nhau. [A. L. Fedolin. Những cứ liệu mới về việc chép sử Việt Nam. Lương Tự Cường dịch. NXB Văn hóa Thông tin. Hà Nội. 2011].
2 Gần đây tôi có một người bạn học ở nước ngoài về. Anh rất quyết liệt trong việc đi học chữ Hán cổ, bởi lẽ, một số bài nghiên cứu của anh không được đăng do các cứ liệu, trích dẫn đều lấy từ các bản dịch. Mà bản dịch thì không phải là tư liệu gốc.
3 Xin xem các bài Hoàng Văn Lâu. Ai viết Gia huấn ca. Tạp chí Hán Nôm. số 01- 1984.
Ngô Đức Thọ. Khảo cứu về Binh thư yếu lược. Tạp chí Hán Nôm, số 01- 1989.
Phạm Văn Ánh. Về Nguyễn Húc và bộ Cưu đài thi tập hiện còn. Nghiên cứu Văn học, số 02 – 2006.
Trần Ngọc Vương, Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương. Đường Lâm là Đường Lâm nào? (Tìm về quê hương Đại Sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu). Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển. Huế. Số 02- 2011.
4 Vũ Thế Khôi. Ai bức tử chữ Hán Nôm? http://vanhoanghean.vn
----------------------------------------------
Xem thêm:
Tia sáng - 03:22-27/03/2013
Theo nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh, từ thời Pháp thuộc trở đi thì tài liệu Hán Nôm là hệ thống quan trọng bậc nhất trong di sản văn hóa truyền thống của dân tộc nhưng vì một số lý do, hệ thống này đã bị thất tán quá nhiều, và thực tế đó buộc chúng ta phải nghĩ tới việc sưu tầm di sản bên ngoài biên giới quốc gia.
PV: Là một người hoạt động lâu năm trong lĩnh vực cổ học, ông có thể cho biết tài liệu Hán Nôm giữ vai trò như thế nào trong lịch sử văn hóa Việt Nam?
Ông Cao Tự Thanh: Dưới thời phong kiến thì đó là bộ phận gắn liền với những thành tựu tổ chức xã hội, phát triển văn hóa của dân tộc Việt Nam mà đại diện là tầng lớp trí thức. Còn từ thời Pháp thuộc trở đi thì đó là hệ thống quan trọng bậc nhất trong di sản văn hóa truyền thống của dân tộc. Đáng tiếc là vì một số lý do hệ thống này đã bị thất tán quá nhiều, nhưng muốn hiện đại hóa đất nước thì phải kiểm điểm lại tất cả những nguồn lực truyền thống, nhìn nhận lại toàn bộ những kinh nghiệm quá khứ, và như vậy không thể không quan tâm tới việc sưu tầm, bảo quản và khai thác các tài liệu Hán Nôm.
Các loại hình di sản thư tịch có mức độ phong phú như thế nào?
Chữ viết là công cụ thông tin và lưu trữ, thì tự nhiên các loại hình tài liệu Hán Nôm phải tương ứng với hoạt động thông tin và lưu trữ của các hệ thống sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, giao tiếp xã hội, quản lý xã hội vân vân trong quốc gia Việt Nam thời phong kiến. Chính quyền ban bố mệnh lệnh, tổ chức bộ máy, kêu gọi nhân dân, hoạt động đối ngoại, trí thức phát biểu chính kiến, sáng tác thơ văn, trước tác công trình, biên soạn giáo trình, nhân dân sinh hoạt từ ma chay cưới gả tới gia phả di chúc, xã hội giao dịch từ điếu tang chúc thọ tới mua bán cầm cố, tôn giáo tuyên truyền giáo lý, quảng bá kinh sách, chuyện gì mà không cần chữ viết, không có tài liệu. Còn nói về cái vỏ vật chất của văn bản thì ngoài chất liệu phổ biến là giấy, tài liệu Hán Nôm Việt Nam còn có các văn bản đồng, đá, tre, gỗ, vải vóc, gốm sứ, có thua kém quốc gia dùng chữ Hán nào đâu.
Ông từng nhắc đến việc thất tán tài liệu Hán Nôm trong thế kỷ XX. Sự thất tán này cụ thể ra sao?
Cũng như các thế kỷ trước, việc thất tán tài liệu Hán Nôm trong thế kỷ XX có ba nguyên nhân chủ yếu, tức một là thiên tai, hai là chiến tranh, ba là sự thiển cận và vô trách nhiệm của con người. Thiên tai là chuyện không có ai muốn nhưng cũng không biết làm sao, ở đây không bàn.
Chiến tranh thì suốt sáu thế kỷ, từ XV đến XX thế kỷ nào Việt Nam cũng có, riêng trong thế kỷ XX là 30 năm. Thế kỷ XV, ngoài số bị phá hủy vì binh lửa còn có những tài liệu thư tịch bị nhà Minh đưa về Kim Lăng; thế kỷ XIX và XX cũng có một số bị đưa ra nước ngoài với những cách thức trái với ý muốn của người Việt Nam ngoài những trường hợp giao lưu. Nói thêm thì thực tế này buộc người ta phải nghĩ tới việc sưu tầm tư liệu Hán Nôm bên ngoài biên giới quốc gia.
Nhưng thế kỷ XX khác hẳn với các thế kỷ trước ở chỗ sau thiên tai và chiến tranh kho tàng tài liệu Hán Nôm cơ bản không được tái tạo vì người Việt Nam đã chuyển qua dùng một loại chữ viết khác. Đây là tiền đề lịch sử – xã hội cho sự vượt lên của nguyên nhân thứ ba, đặc biệt là từ 1975 đến nay. Khi mà tuyệt đại đa số trí thức và nhân dân không có khả năng đọc hiểu văn bản Hán Nôm, tức không có kiến thức cụ thể thì rất khó mà nói những chuyện như nhận thức hay ý thức về di sản Hán Nôm cho tới nơi tới chốn. Bởi vì cái di sản ấy là một cấu trúc phức hợp mang tính liên thông chức năng rất cao, ngoài phần tài liệu – văn bản vật thể còn có phần phi vật thể, ví dụ ngôn ngữ. Việc sử dụng mảng từ Việt Hán bị xuống cấp trong nhiều năm nay chính là một bằng chứng đấy.
Đến nay (thế kỷ XXI), việc thất tán tài liệu có còn diễn ra hay không, nếu có nó diễn ra dưới hình thức nào?
Nhiều hình thức và mức độ, mà chủ yếu là do sự thiển cận và vô trách nhiệm của con người. Đã có ai đó vớ được một bản sách đồng thời Nguyễn bán ra nước ngoài, đã có ai đó trùng tu đền miếu chùa quán bỏ hết câu đối biển ngạch vốn có để thay bằng câu đối biển ngạch mới, đã có ai đó dùng kỹ thuật vi tính “phục chế” kiểu ngụy tạo một bản Kiều Nôm. Có khi tài liệu Hán Nôm cũng được sưu tầm bảo quản, nhưng vì chủ thể sưu tầm bảo quản coi là “kỳ hóa khả cư” (món hàng lạ có thể bán) nên chúng không phát huy được chức năng xã hội có thể có, đó cũng là một hình thức mất mát. Trong tất cả các trường hợp nói trên, sự xâm hại hay chuyển dịch các tài liệu vật thể đều ít nhiều kéo theo sự mất mát các giá trị phi vật thể, cho nên giống như trong một phản ứng dây chuyền, đã xuất hiện tài liệu giả, văn bản giả, hiện vật giả, hay tệ hơn là nhiều giá trị truyền thống bị đánh tráo chức năng.
Ông có kiến nghị hoặc đề xuất nào về việc sưu tầm, bảo quản và khai thác tài liệu Hán Nôm không?
Nhà nước đã tổ chức nhiều hệ thống để làm những việc đó từ Trung ương tới địa phương, ai mà cải tổ được toàn bộ quy chế hoạt động, thay đổi nổi toàn bộ cung cách tác nghiệp của hệ thống lưu trữ và nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam, có đề xuất kiến nghị gì gì cũng vô ích. Chỉ mong những cá nhân và tổ chức trong các hệ thống ấy làm đúng những điều chính họ đề ra để nhận kinh phí nhà nước thôi thì kể như di sản Hán Nôm ở Việt Nam hiện nay cũng đã gặp may rồi.
DTT thực hiện