Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Vẽ bằng ánh sáng


Những "chớp ảnh thời gian" của Light - painting

Kỹ thuật light-painting (vẽ bằng ánh sáng) mới bắt đầu nhen nhóm từ thế kỷ 20. Cái tên của nó mang nguyên nghĩa của nhiếp ảnh, theo tiếng Hi Lạp là phos (ánh sáng) và graphis (cây cọ).
Như vậy cái mà chúng ta nghĩ về nhiếp ảnh như một loại hình ghi lại khoảnh khắc, sự kiện, con người dù đẹp đến mức nào thì đó vẫn là một hoạt động bề nổi, mang tính thưởng thức và chia sẻ thông tin trong đại chúng. Còn phần sâu hơn đi vào bản chất của ánh sáng lại được light-painting hấp thụ và phát triển thành một nhánh riêng biệt. Một số mốc quan trọng của loại hình nghệ thuật này sẽ cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của light - painting.
Năm 1889
Đây là một giai đoạn sội động của lịch sử nhiếp ảnh. Năm 1887, Eadweard Muybridge trong cuộc cá độ với thống đốc bang California rằng, khi phi nước đại cả 4 vó ngựa đều rời mặt đất ở một thời điểm bất kỳ. Để chứng minh cho điều này, Muybridge đã bố trí một máy ảnh dọc đường đua. Mỗi cửa sập máy ảnh nối với một sợi dây kéo ngang đường đua, khi con ngựa chạy qua, chúng sẽ kích hoạt máy ảnh chớp nổ. Đây là màn khởi đầu cho cuộc chơi ảnh động. Tuy nhiên cùng thời gian này cũng có một cuộc gặp gỡ quan trọng giữa triết gia Étienne-Jules Marey và Georges Demeny để phát triển về nhiếp ảnh hoạt nghiệm (Chronophotography). Tại đây, Marey và Demeny lại quan sát hiện tượng chuyển động của ngựa trên cùng một tấm phim. Hiệu ứng này tác động rất mạnh đến Trường phái nghệ thuật Vị lai Italia khi các nghệ sĩ muốn khắc họa hành trạng chuyển động của sự vật trên cùng một khuôn hình. Ví dụ như chuyển động của một vận động viên nhảy xa từ giai đoạn bật nhảy, lơ lửng trên không rồi chạm đất trở nên tĩnh tại và sống động một cách kỳ quái.
Không những thế, ánh sáng cũng là một đối tượng quan sát. Bức ảnh “Pathological walk from in front”của 2 nhiếp ảnh gia này được tạo ra từ ánh sáng của bóng đèn sợi đốt và chuyển động của nó đã đi vào lịch sử ligh-painting và nhiếp ảnh đương đại.
Năm 1914
Frank Gilbreth và vợ của mình đã sử dụng máy ảnh phơi sáng để ghi lại những hoạt động trong nhà máy và các công nhân. Tại đây ánh sáng không phải là đối tượng sáng tác mà thay vào đó như Gilbreth miêu tả: “một công việc được đơn giản hóa”. Bằng cách này, ông chỉ ra cho công nhân cách họ chuyển động tốt nhất để đạt năng suất công việc cao hơn.
Năm 1935
Thời điểm này, thế giới đã có Man Ray, một trong những nghệ sĩ tiên phong trong khám phá ánh sáng của nhiếp ảnh. Trong series “Space Writing” ông đã bố trí máy ảnh chụp chân dung của mình, nhưng tập trung vào những vệt ánh sáng vẽ thành các đường ngoằn ngoèo trong không gian. Đến năm 2009, một nhiếp ảnh gia tên là Ellen Carey đã soi những đường vòng tròn này qua gương và nhận ra rằng đó là một dạng chữ ký của Man Ray.
Trong thời gian này, một kỹ sư nghiên cứu nhiếp ảnh không chuyên là Gjon Mili cũng sử dụng kỹ năng nhiếp ảnh hoạt nghiệm để ghi lại chuyển động của các vũ công, nhạc sĩ, vận động viên trượt băng nghệ thuật… Nhưng bức ảnh để đời của Mili chính là bức chụp Picasso trong studio của mình, ngay sau đó tạp chí Life đăng tải bức ảnh năm 1940.
Năm 1943
Trong năm này, Jack Delano – một nhiếp ảnh gia làm tại Cục quản lý an ninh trang trại đã để máy ảnh chụp tốc độ chậm ghi lại các hoạt động của công nhân ngành đường sắt. Lúc này, ta có thể thấy, ánh sáng trở thành một đối tượng khá độc lập với hoạt động con người.
Năm 1949
Andreas Feininger – nhiếp ảnh gia của tạp chí Life đã ghi lại được chuyển động của một chiếc máy bay trực thăng bao gồm các vòng tròn của cánh máy bay và phương lên xuống của nó. Ta lại thấy sức mạnh của bối cảnh nền, cùng ánh sáng đã tạo nên một không gian 3D cho ligh-painting phát triển mạnh mẽ hơn.
Năm 1957
George Mathieu – một nghệ sĩ Pháp đã thực hiện một bức tranh ánh sáng trừu tượng, trong đó mục đích sử dụng ánh sáng, phương pháp vẽ và kỹ thuật chụp ảnh đã trở thành một phương pháp thống nhất.
Năm 1976
Nhiếp ảnh gia David Lebe thực hiện vẽ chân dung của mình bằng kỹ thuật pin-hole. Tại đây camera pinhole đơn giản chỉ là một chiếc hộp kín, một lỗ nhỏ (thay cho ống kinh) cho ánh sáng lọt vào, một tấm cảm quang lưu ảnh. Vì lỗ thu sáng rất nhỏ nên thời gian để tấm cảm quang phơi sáng có thể kéo dài từ 30 giây trở lên tùy kỹ thuật và ý đồ của tác giả. Ta có thể thấy David Lebe đã sử dụng chiếc đèn pin để phác họa cơ thể mình.
Cũng trong nằm này, Eric Staller người được ví như cha đẻ của các bức ảnh ánh sáng đã thực hiện các tác phẩm của mình bằng cách chụp lại chuyển động của ánh sáng trên đường phố New York. Những tác phẩm của ông sử dụng lập luận của Man Ray, tiếp thu những ưu thế về bối cảnh và kỹ thuật của những người đi trước. Ông cũng là người có ảnh hưởng rất lớn đến nghệ sĩ light-painting hiện nay.
Năm 1977
Mặc dù chỉ lệch đi một năm nhưng Dean Chamberlain lại phải để riêng một góc, khi ông sử dụng ánh sáng một cách linh hoạt như một họa sĩ pha màu nước.
Năm 1979
Khác với Dean và các nghệ sĩ cùng thời với mình, Jacques Pugin người Thụy Sỹ  hướng đến sự đơn giản của ánh sáng bằng cách tạo các khối 3D thuần túy.
Năm 1980
Cá tính của Jozef Sedlák – nghệ sĩ người Slovakia chính là những bức ảnh lấy chủ đề tôn giáo theo trường phái biểu hiện. Tác phẩm nổi tiếng nhất của anh là “Rate-Self Knowledge”
Cùng năm nay, nữ nghệ sĩ Vicki DaSilva và chồng của mình (là một thợ điện) đã sử dụng bóng đèn huỳnh quang làm chất liệu mới cho những sáng tác của cô.
Năm 1983
Kamil Varga nổi danh với phong cách "Luminographie"  khi tận dụng các ưu thế của chất liệu cảm quang.
Năm 1985
John Hesketh quay trở lại với các mảng màu ánh sáng giống như  Dean Chamberlain, nhưng chủ đề sáng tác tập trung vào những người có cánh.
Năm 1988
Tokihiro Sato, một nghệ sĩ của Nhật, đã tận dụng ưu thế văn hóa phương Đông khi khai thức chủ đề về Nhịp thở và Linh hồn trong tác phẩm của mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét