Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG 1988 bàn về VĂN


ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ
THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI
http://www.viet-studies.info/NhaVanDoiMoi/HoangPhuNgocTuong_HieuVanDayVan.htm

Nguồn: Văn nghệHà Nội, số 26 (26-6-1988)



HIỂU VĂN VÀ DẠY VĂN
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Có một vấn đề thuộc về nguyên lý đã chi phối toàn bộ công việc giảng dạy văn học trong nhà trường của chúng ta từ trước đến nay, chính là vấn đề xác định các chức năng của văn học đối diện với cuộc sống. Ai cũng biết, các nhà lý luận đã quy định cho văn học ba chức năng là giáo dục, nhận thức và thẩm mỹ. Đọc qua các bài vở được lựa chọn một cách có hệ thống trong các sách giáo khoa, theo chỗ chúng tôi nhận thấy, thì giáo dục và nhận thức về cơ bản bao hàm giáo dục và nhận thức quan điểm lập trường giai cấp, và chức năng thẩm mỹ thì còn bị đẩy lùi xa hơn, do phải tuân thủ một quan niệm có tính nguyên tắc rằng "cái đẹp phải là cái có ích". Thử dừng cái nhìn của chúng ta lại một chút trên cái ý niệm có vẻ là tự do nhất trong các chức năng nói trên của văn học là chức năng thẩm mỹ và lập tức chúng ta có thể đặt ngay một câu hỏi: "Vậy thì có cái đẹp nào lại vô ích?" Để xem xét vấn đề một cách cụ thể hơn, chúng ta có thể hình dung ra một con tàu: con tàu cần đi tới nhà ga đã quy định hàng hóa được vận chuyển tới nơi cần thiết, người cán bộ đi công tác tới được nhiệm sở, anh bộ đội đến được chỗ tập kết, mọi cái đều là có ích và tất cả sẽ được xem là yếu tính của cái đẹp văn học dành cho ngành Đường sắt. Nhưng trên tàu lại xuất hiện một gã lãng tử đứng bên cửa sổ con tàu: không ai biết hắn đi đâu, làm gì, chỉ thấy hắn mê mải nhìn không chán những cánh rừng đầy hoa dại ở bên đường. Liệu hắn có được xem là đối tượng của văn học không, hay chỉ là một gã mơ mộng vô tích sự ở đời. Sự thật thì việc ngắm nhìn trời đất tưởng chừng như vô ích của gã lãng tử kia lại đáp ứng một nhu cầu thông tin hết sức cần thiết của tâm hồn con người, ấy là "thông tin về cái đẹp". Hình như đã lâu rồi, chúng ta đã quá tiếc thì giờ để có thể bày giải với học sinh của chúng ta tầm quan trọng của một câu thơ kiểu như thế này:
Chàng áo tím đứng nhìn bông hoa tím
(Tử y lang đối tử vi hoa)
Đó là một câu thơ của Lý Bạch, và chắc chắn là quan điểm thực dụng về cái đẹp sẽ không nhìn nhận nổi, rằng cái bông hoa tím nhỏ bé kia đã mang tới cho người đứng nhìn ngắm nó những thông báo về một thế giới sâu thẳm ngần nào chính là thế giới nội tâm của con người. Chỉ mới xét đến chức năng "thẩm mỹ" ấy thôi, đã có thể thấy rằng quan điểm thực dụng đã làm nghèo nàn đi biết bao nhiêu sức sống tràn trề của văn học.
Nhưng tôi cho rằng đã đến lúc cần xét duyệt lại quan niệm của chúng ta về các chức năng của văn học: có thật là văn học chỉ bao gồm ba chức năng kinh điển đó hay không? Hay còn những chức năng nào khác nữa? Bây giờ thì dần dần người ta ngày càng thấy phải thừa nhận nhiều chức năng khác của văn học trước kia chưa nói tới, ví dụ như chức năng dự báo, chức năng giải trí v.v... Trước hết, phải thấy rằng văn học chính là cuộc sống, và cuộc sống là vô tận. Chékhov có lần đã nói rằng: không thể định nghĩa được cuộc sống vì lẽ đơn giản rằng người ta chỉ có thể dùng cuộc sống để định nghĩa mọi ý niệm khác: cuộc sống là cuộc sống và không thể định nghĩa khác hơn cũng như nói củ cà rốt là củ cà rốt. Cũng như vậy không thể dùng một số chức năng nào để định tính cho văn học, văn học chính là cuộc sống, cuộc sống tới đâu thì văn học tới đó, và cuộc sống là vô tận nên các chức năng của văn học cũng là vô tận.
Một cách suy nghĩ như vậy theo tôi, có thể sẽ giúp chúng ta phá vỡ tình trạng gò ép khiên cưỡng để đưa những học sinh của chúng ta tiếp cận chính xác hơn với bản chất của văn học, và từ đó có thể cảm thụ được mọi chiều hướng của vẻ đẹp tác phẩm, vốn là tính chất vô bờ bến của tâm hồn con người được nhà văn ký thác qua chữ nghĩa. Hai nghìn năm trước, nhà phê bình Trung Quốc - Lưu Hiệp đã từng nói: "Ta hồ! Văn chương chi sự - Thốn tâm thiên cổ". (Than ôi! Cái việc văn chương - tấm lòng nghìn năm).
Xin trình bày một khía cạnh khác của vấn đề, là kiến thức văn học.
Tất cả mọi danh vọng trên đời này đều là hư ảo, chỉ có kiến thức mới thực sự mang đến hạnh phúc cho con người. Chính Leona de Vinci, người đã có đủ cả danh vọng và kiến thức ít ai sánh nổi, đã khẳng định điều ấy.
Đúng như thế, và nếu sự ngu dốt luôn luôn gây ra đau khổ cho chính mình và cho người khác, thì nhà trường lại mang sứ mệnh cao cả nhất là trang bị kiến thức để chuẩn bị cho con người có thể sống hạnh phúc ở đời. Kiến thức là hành trang vào đời của con người, tiếp nhận qua bấy nhiêu năm sống dưới mái trường.
Chính ở đây sẽ nổi bật lên một tính chất đặc trưng hết sức quan trọng của kiến thức văn học; ấy là, trong khi mọi kiến thức khoa học khác vẫn nằm ngoài tôi - giống như những dụng cụ tôi được trang bị để làm chủ thế giới bên ngoài - thì kiến thức văn học lại nội nhập để kiến tạo nên thế giới bên trong của tôi. Dễ hiểu thôi, tôi sẽ làm chủ được một bộ phận của thế giới với định luật về vật rơi mà không cần chia sẻ nỗi niềm gì với Newton: nhưng ba trăm năm sau chắc có người còn khóc Nguyễn Du khi đọc lại Truyện Kiều; cùng buồn cùng vui với tâm trạng của thi sĩ. Nghĩa là, tôi như một người lính lên đường; mọi kiến thức khác đều là hành trang được chất vào ba lô mang sau vai, riêng kiến thức văn học thì đã chuyển hóa vào bên trong để thành chính tâm hồn người lính. Về mặt tâm lý học mà nói, thì kiến thức văn học gắn liền với sự phát triển nhân cách.
Chúng ta đều biết, ba tính sáng tạo của nhà văn đã quyết định sự tồn tại của tác phẩm như thế nào. (Nhân thể, tôi đề nghị lưu ý thêm một chức năng khác của văn học là chức năng thể hiện cá tính của chủ thể sáng tạo). Tác phẩm như là cách ở đời của nhà văn; và bằng sự cảm thông, kiến thức văn học được truyền lại sẽ góp phần vào sự hình thành cá tính nơi chính người cảm thụ nó; tóm tắt lại, nhiệm vụ dạy văn phải đảm bảo được yêu cầu phát triển nhân cách tự do của người học trò. Dạy văn, không phải là truyền đạt tri thức lạnh lùng, mà là phát động nỗi say mê của tâm hồn hướng tới các chân lý văn học; và chính vì thế, sức mạnh cá tính của chính người truyền đạt văn học phải được biểu hiện hết sức mạnh mẽ. Điều này sẽ đưa đến hệ quả cụ thể là không thể bắt buộc mọi thầy cô giáo khi giới thiệu về Nguyễn Du, Cao Bá Quát... đều phải giảng dạy theo một giáo án đã định sẵn cho mọi người; ngược lại người thầy giáo phải được hoàn toàn tự do để cảm thụ và thể hiện lại tác phẩm bằng sức mạnh cá tính của mình. Phải hiểu rằng người đọc là một á-tác-giả (quasi-auteur), hoặc còn hơn nữa, là một đồng-tác-giả (co-auteur) với người viết.
Văn học bao hàm tính độc đáo của nhân cách; tác phẩm được lựa chọn phải thể hiện đầy đủ cá tính của nhà văn, người truyền đạt phải chuyển tác phẩm bằng tất cả nỗi đam mê của tâm hồn mình, như thể là tình yêu.
Mọi quan điểm phê bình thực dụng chủ nghĩa về văn học, sự đồng phục hóa các giáo án cũng như sự ức chế cá tính của người giảng dạy; tất cả sẽ biến việc dạy dỗ học hành thành một trò nhai văn nhá chữ buồn tênh, chẳng những không giúp ích cho yêu cầu phát triển cá tính mà chỉ tạo ra nơi người học sinh sự cằn cỗi già nua của tâm hồn và nỗi chán mứa đối với văn học.
Giải phóng công việc giảng dạy văn học khỏi sự chính trị hóa thô thiển, theo tôi nghĩ, là vấn đề cấp thiết nhất cần phải thực hiện lại từ đầu; thực hiện nhất quán trong cả chuỗi mắt xích của sự nghiệp, từ sự nhận thức đúng chức năng của văn học đến quan điểm và phương pháp giảng dạy, từ việc tuyển chọn và biên soạn sách giáo khoa, đến thói quen chấm bài nhào nặn làm chết cá tính sáng tạo của con người từ tuổi cắp sách tới trường. Phải loại bỏ tất cả các sách lý luận văn học và hệ thống sách giáo khoa chứa đựng không biết bao nhiêu sai lầm và thiếu trung thực nhất hiện nay, phải tổ chức lại việc hiểu văn và dạy văn; phải làm pêrextrôika ngay từ bây giờ để đưa nhà trường của chúng ta trở lại đúng mục đích nhân đạo của nó, chính là vun đắp và phát triển chứ không phải là làm thương phế tâm hồn và trí tuệ.
Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 26 (26-6-1988)
-----------------------------------------------------


Hoàng Phủ Ngọc Tường

Thứ ba - 18/10/2011 17:05

Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hoàng Phủ Ngọc Tường (sinh năm 1937) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1978).
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hoàng Phủ Ngọc Tường (sinh năm 1937) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1978).

Tiểu sử sơ lược

Ông sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Phong, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Ở Huế, ông học học hết bậc trung học.

Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Đại học Sư phạm Sài Gòn.

Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế.

Năm 1960-1966, dạy tại trường Quốc Học Huế.

Năm 1966-1975, ông thoát ly lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng hoạt động văn nghệ.

Ông từng là Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên-Huế, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.

Hiện nay ông đang sống ở Huế.

Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng đợt với vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. [1]

Tác phẩm

Thể loại bút ký:

        Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971).
        Rất nhiều ánh lửa (1979, Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam 1980-1981)
        Ai đã đặt tên cho dòng sông, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế (1984)
        Bản di chúc của cỏ lau (truyện ký, 1984)
        Hoa trái quanh tôi (1995)
        Huế - di tích và con người (1995)
        Ngọn núi ảo ảnh (2000)
        Trong mắt tôi (bút ký phê bình, 2001)
        Rượu hồng đào chưa uống đã say (truyện ký, 2001)
        Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé (bút ký văn hóa, 2005)
        Miền cỏ thơm (2007)
        Ai đã đặt tên cho dòng sông. Tinh tuyển bút ký hay nhất, Nxb Hội nhà văn, 2010

Thể loại thơ:

        Những dấu chân qua thành phố (1976)
        Người hái phù dung (1992)

Thể loại nhàn đàm:

        Nhàn đàm, Nxb Trẻ, 1997
        Người ham chơi, Nxb Thuận Hóa, 1998
        Miền gái đẹp, Nxb Thuận Hóa, 2001 (Tặng thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam 2001)

Tuyển tập:

        Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, 4 tập, Nxb Trẻ, 2002

Nghiệp văn chương

Đánh giá chung về sự nghiệp văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sách Ngữ văn 12 có đoạn viết:

    Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí...Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa[2].

Trích thêm ý kiến của người trong giới:

    Nhà văn Nguyễn Tuân:

    Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có "rất nhiều ánh lửa"[3].

    Nhà văn Nguyên Ngọc:

    Trong một cuốn sách gần đây của anh, viết và in ngay giữa những ngày anh đang vật lộn với cơn bệnh nặng-chứng tỏ ở anh một đức tính dũng cảm và một nghị lực phi thường của một người lao động nghệ thuật-anh tự coi mình là "người ham chơi". Quả thật, anh là một người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với nhân dân, với con người, đi say mê và say mê viết về họ...[4]

    Nhà thơ Hoàng Cát:

    Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được...[5]

    Nhà thơ Ngô Minh:

    Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình...Thực ra, bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc...thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường thấm đẫm "triết học về cái chết...thơ anh buồn mỗi nỗi buồn đứt ruột...Đấy là thơ của cõi âm"... Đó là một nhận xét xác đáng[6].

    Trên Website vnexpress:

    Dường như trong suốt cuộc đời mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường bị ám ảnh bởi hoa. Điều đó, dù cuộc đời lận đận những ngày tù cộng với những năm tháng bôn ba khắc nghiệt của chiến tranh vẫn không tước đoạt nổi của ông...Ông viết rất nhiều về hoa và đặc biệt, ông bị ám ảnh bởi sắc diện phù dung. [7].

Trích sáng tác

        Có một buổi chiều nào như chiều xưa
        Anh về trên cát nóng
        Đường dài vành môi khát bỏng
        Em đến dịu dàng như một cơn mưa.
        ...
        Có buổi chiều nào người bỏ vui chơi
        Cho tôi chiếc hôn nồng cháy
        Nỗi đau bắt đầu từ đấy
        Ngọt ngào như trái nho tươi.

      

        Có buổi chiều nào mộng mị vây quanh
        Nửa vành mi cong hờn dỗi
        Em xõa muộn sầu trên gối
        Rối bời như mớ tơ xanh.

        Có buổi chiều nào hình như chưa nguôi
        Vầng trăng sáng màu vĩnh viễn
        Em có lời thề dâng hiến
        Cho anh trọn một đời người.

        Có buổi chiều nào như chiều nay
        Căn phòng anh bóng tối dâng đầy
        Anh lặng thầm như là cái bóng
        Hoa tàn một mình em không hay.
        (trích Dạ Khúc) [8]

Và một đoạn bút ký:

    ...Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư nên trong chiến tranh thoát khỏi bị xe Mỹ càn ủi.
    Đúng một trăm năm sau ngày Hoàng Diệu tuẫn tiết, xã đã trùng tu lại nơi yên nghỉ của cụ, quy cách khiêm tốn như nó vốn thế. Tường lăng sơn trắng phơn phớt hồng nỗi lên màu lá xanh, bát ngát và trong sáng, đúng là giấc ngủ của người anh hùng.
    Người sinh ra ở gò Nổi để chết dưới chân thành Hà Nội, xương thịt trở về với đất làng mà chính khí vang động sử sách,"trời cao bể rộng đất dày-núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi".
    Trước mặt người ta đọc thấy cặp câu đối viếng của Tôn Thất Thuyết: "Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện/ Bình sinh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khả vô tâm" (Lấy cái chết để thành tên tuổi, xưa nay người anh hùng đâu muốn thế/ Một thời trung nghĩa lòng không thể hổ thẹn khi nhìn đai cuộc ngày nay)...
    Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng.
    Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân!...[9]

Gia đình riêng

    Vợ: Lâm Thị Mỹ Dạ

(Sinh nhật năm 2008 - tại gia đình nhà văn)
(Vĩnh Thuận sưu tầm - Ngọc hà - 8/8/2012)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét